[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


08 tháng 7 2009

VI.2. Đệ lục đại Tổ (2): LƯƠNG ĐỨC DẬT

Đất bồi vượng khí, qua khắp mọi miền-Cặp rèn con cháu: phải vì Nước, vì Dân, danh vẫn lưu truyền.
VI.2.1- Cuộc đời:
梁德溢 (逸) Sinh năm 1925 (Ất Sửu, năm Khải Định thứ 10 hoặc Bảo Đại thứ nhất). Thủa nhỏ được mẹ chiều nên ham chơi hơn học[1]. Nhưng bù lại rất khéo tay, nghề gì cũng tự mày mò, làm được[2].
Tuổi thanh niên ít tham gia công tác. Cuối cuộc kháng chiến từng bốc vác, chèo đò đưa cán bộ, du kích qua sông ở Bến Khuể. Sau hoà bình tích cực tham gia các phong trào văn nghệ ở thôn. Năm 1962, 1963 làm thợ mộc đi xây dựng khu Gang thép Thái Nguyên. Khi ở quê vì đất chật nên 2 anh em chung sân, chung bếp. Anh (Thân) thiên về làm “thầy” (dạy học, văn nghệ) thì em lại chăm chú học làm “thợ”. Hết làm mộc lại tự học làm thợ rèn, thợ cắt tóc, thợ may sau còn thổi cả kèn đám ma nữa[3]! Quanh năm vất vả xoay đủ nghề nhưng không khá giả lên được.
Tháng 2/1964 đi khai hoang ở An Phong, Phong Niên, Bảo Thắng, Lào Cai cùng đợt với anh trai. Gia đình gồm 8 khẩu: 2 vợ chồng và 6 con (An, Dưỡng, Sinh, Tràng, Quang, Vinh). Lúc đầu ở chung dẫy 3 gia đình. Khi L.Đ.Duẩn chuyển Trì Quang thì sang mảnh đất của ông Duẩn ở. Một tay ông dựng bao ngôi nhà, đóng cối xay, cối giã để cho xóm làng dùng. Dụng cụ khai phá buổi ban đầu khi mà chợ búa xa, ít đồ đều do ông sửa chữa, cải tạo. Ông còn là người tự nguyện tổ nấu xôi, tổ chức cho con cháu trong An Phong vui tết Trung thu trong thời khốn khó.
Mất ngày 07-6 năm Đinh Tị (Sáng Thứ Sáu, ngày 22/7/1977) vì bệnh Đái tháo đường[4]. Mộ phần đặt tại khu gốc gạo Km 36 Phong Niên.

VI.2.2- Phu nhân: Lưu Thị Bính:
Sinh năm Mậu Thìn-1928, quê thôn Hạ Lũng[5], An Hải, Hải Phòng. Bà nhanh nhẹ, hoạt bát, hiểu việc đời. Hai người cưới nhau hồi đầu kháng chiến[6]. Đất hẹp, xoay đủ nghề mà không khá lên được.
Khi lên Lào Cai từng làm đội trưởng ĐSX, đại biểu HĐND xã. Năm 1974 đã đưa em gái (Tích-Chập), em trai (Hưng-Túp) và bà con (Chỉ-Hội) lên Lào Cai cùng ở trong An Phong. Khi thôi công tác, buôn hàng vải hỗ trợ con cái.
Năm 1988 ốm do Cao huyết áp. Mất lúc 3 giờ sáng Thứ Tư ngày 15/6 (02-5 Mậu Thân)[7]. Mộ phần đặt cạnh mộ chồng.

VI.2.3- Các con:
Ông bà sinh nhiều bận, nuôi đến trưởng thành có 6 :
2.1- Lương Đức An (1949-1967): Liệt sĩ CMCN
2.2- Lương Thị Dưỡng (1952-2004)
2.3- Lương Thị Sinh (1955-1994)
2.4- Lương Đức Tràng
2.5- Lương Đức Quang
2.6- Lương Thị Vinh.
-*-

[1] Bố và chú tôi cùng học Cụ Hội Khuê (bố cô Khuê, cô Huấn lên Lào Cai 1964). Có lần mải chơi chú không thuộc bài, cụ Hội Khuê bắt bố tôi nằm mà quất 3 roi vào mông vì tội không kèm em.
[2] Thực là đúng như câu đối tôi viết dịp tưởng niệm 20 năm ngày chú mất (1977-1997):

Trời phú khéo tay, trải biết bao nghề-Gây dựng cơ đồ giữ chữ Đức, chữ Nhân , tiếng còn thơm mãi,
Đất bồi vượng khí, qua khắp mọi miền-Cặp rèn con cháu: phải vì Nước, vì Dân, danh vẫn lưu truyền.

[3] Chính đôi kèn ông làm mới sử dụng được vài lần nhượng cho ông Đờn bên Sơn Hải (qua chú Bùi Văn Đồng) là “nhạc cụ” khơi mào cho các Đoàn Nhạc hiếu xã Sơn Hải phát triển mạnh sau này.
[4] Khi đó tôi đang nghỉ hè năm thứ 3 ĐHQY
[5] Là một làng xã ven đô thuộc phường Đằng Hải, quận Hải An từ xưa vốn nổi tiếng về trồng cây trái, hoa tươi, quả ngọt cung cấp cho thị trường. Nơi đây có Miếu Hạ Lũng là một trong hệ thống các công trình kiến trúc cổ mà nhân dân dựng nên để ghi nhớ công lao của Ngô Vương Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938.
[6] Hồi 9 năm: thím sơ tán về làng Hương buôn bán, trọ ở nhà chị gái bác Ruẩn. Bà muốn làm mối thím cho em trai mình là Trương Tiếp (anh bác Lương Đức Ruẩn).Trong khi đó bên ngành nhà tôi lại muốn cưới cho chú tôi (Để chú khỏi “lêu lổng”).Vì bố tôi và các anh đều tham gia công tác xã, thôn nên đã ra qui định: dân nơi khác đến (trong đó có thím Bính) tối tối phải ra đình ngủ tập trung. Nhờ chú tôi là du kích “bảo lãnh” thím được “chiếu cố” và sau đó đã đồng ý lấy chú. Bà làm mấy mâm mời đội du kích và thành đám cưới. Đổi lại anh Tiếp phải đổi tên thành Thiếp (theo ý gia đình bác Ruẩn). Bác Trương Tiếp sau đó mất, chưa con.
[7] Thực ra bà ốm đã lâu, ở nhà Quang ngoài đường, giấu con cái không chịu uống thuốc. Khi mệt nặng mới đưa vào nhà Tràng. Tôi và Vinh (con út thím) ở Yên Bái lên từ hôm trước nhưng lúc đó thím cũng không còn nói được gì. Lúc truy điệu tôi có đọc bài tế mọi người bảo được. Rất tiếc đã quên, chỉ còn nhớ đôi câu đối viết trên bức trướng:

Thay chồng: nuôi dạy con, tròn đạo Hiếu-Rạng danh dâu Thảo
Thương con:chăm sóc cháu , vẹn nghĩa Tình-xứng tiếng mẹ Hiền.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!