[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


27 tháng 6 2009

III.5- HẬU DUỆ của Tam Tổ

Tam Tổ sinh 5 nam là: Hinh (2 nam), Tuynh (8 nam), Chinh (2 nam), Thành (3 nam), Trinh (2 nam).

III.5.1- Cụ Hinh và hậu duệ:
Cụ mất ngày 01/7.
Cụ bà Đào Thị Còi 孤, kị ngày 01/11 sinh được 2 nam là Phức (Kị 01/6, vô tự), Mạo và một người con gái là Lục làm dâu họ Phạm[1] Cốc Tràng.

III.5.1.1- Hậu duệ ở lại quê :
* Đời thứ 5: L.Đ. Mạo[2] (Kị 01-11)[3] có vợ là Đỗ Thị Phề (Kị 15-5), các cụ sinh 2 Nam là Công và Liêm. Cụ có công khơi mào soạn lại Gia phả họ .
* Đời thứ 6: L.Đ. Công[4] (Kị 01-9), vợ là Vũ Thị Nội (kị 07-10 hay 17/10 ?) sinh 2 Nam là Hồng và Đào, 2 nữ là Giản, Dị.
L.Đ. Liêm (kỵ 08/4 N Ất Mão), vợ là Vũ Thị Hợi (kị 27/11), sinh 6 Nam là Tiêm ; Hiệp (1 Nam); Nhiếp (1 nam) ; Riếp (1 nam); Diệm (2 nam). Tất cả đều ở quê, làm ruộng.
* Đời thứ 7: L.Đ. Hồng (Kị 03-02, vô tự).
L.Đ. Đào (kị 15-Chạp) vợ là. Sinh 2 Nam là Tơ và Liễu.
L.Đ.Tiêm: không con trai, mất 17 tháng 2 Canh Thìn (tức là 22/3/2000).
L.Đ.Nhiếp: Mất 23/8/2004, tức là ngày 08/7 Giáp Thân. 2 đời vợ, có 1 trai là Thêm.
* Đời thứ 8: L.Đ. Tơ[5] ở lại quê làng Hạ, năm 1999 chuyển ra cạnh đường từ làng xuống Khuể cách làng 200m
L.Đ.Liễu lấy vợ và sinh sống tại Cốc Tràng.
L.Đ.Hảo[6]
L.Đ.Thêm:


* Đời thứ 9:

III.5.1.2- Hậu duệ lên Lào Cai (LƯƠNG ĐỨC THIẾP) :
* Đời thứ 7: L.Đ. Thiếp (là con trai thứ 3 của L.Đ.Liêm) lấy vợ cùng làng tên là Đặng Thị Khuy[7]. ĐTK hiền lành, mắc bệnh đau đầu. Kị 07/11, Mộ “kết” không cải, đặt tại NT nhân dân thôn Nậm Dù, Km 46 Xuân Quang.
Khi ở quê, nhà cạnh ao tròn nhà thờ Tổ. Lên Lào Cai tháng 2/1964 ở Thái Vua thuộc xã Xuân Quang, sau chuyển xuống Nậm Dù (Km 49).
Trong những năm 1966-1977 theo nghề buôn bán tạp hoá, móc hàng trong mậu dịch tuồn ra bán cho bên ngoài kiếm chênh lệch nên so với số đông dân chúng vùng Phong Niên, Xuân Quang thì thuộc loại khá gỉả, giao tiếp rộng. Tuy ít học nhưng thuộc Kiều, nhiều điển tích cổ, khéo tán, lại ưa “trăng hoa” nên lắm nhân tình (người là Mậu dịch viên, người bán lẻ ngoài chợ, người làm ruộng, người làm thuê) và đông con. Những người mà có con mang họ Lương, ngoài Đ.T.Khuy còn có: Ngô Thị Chẽ (người gốc Hải Phòng, lên ở Km 42, con gái tên Sơn, sau đổi là Hồng), Trần Thị Thanh (“vợ tư”, người Thanh Hoá, được 5 con ). Ngoài ra còn có Lương Thị Hải (không con, nhà ở Km 41) và 2-3 bà nữa (cả Kinh và Dao) rải con ở Bát Xát, Trì Quang, Bảo Nhai. Về già ở với T.T.Thanh và các con bà này tại Km 49 đường Lào Cai đi Yên Bái, cuộc sống rất khó khăn.
Mất 10 giờ ngày 15/7/2003 (tức là giờ Kỉ Tỵ, ngày 16 Kỷ Sửu, tháng 6 Kỷ Mùi năm Quý Mùi) thọ 81 tuổi. Ngày 01/12/2008 (tức là ngày 05/11 Mậu Tý) thực hiện việc cải táng, cùng đợt với con gái (Năm) và 2 cháu ngoại.

* Đời thứ 8:
Con L.Đ.Thiếp với Đặng Thị Khuy: trai cả là L.Đ.Thường (vợ tên Nga, người Bảo Nhai) ở Km 45 Xuân Quang, cả 2 vợ chồng đều giỏi chao chác nên kinh tế khá, con trai lớn của Thường là L.Đ.Hùng. Còn 1 trai con tên là Thái và con gái là Thi, Đua, Hoa, Năm[8].
Con với Trần Thị Thanh có 5 là L.T.Hoàn, L.T.Liên, L.T.Thơm, L.Đ.Toán, L.Đ.Tỵ. Trong đó 2 con gái lớn bị lừa đem sang bán bên Trung Quốc (Triết Giang, Quảng Đông) từ 1997; năm 2006 Liên, năm 2008 Hoàn có về chơi.
Con với người khác không liên hệ nên không chép được.

* Đời thứ 9 : L.Đ.Hùng :

III.5.2- Cụ Tuynh và hậu duệ:
Cụ mất 15/5, thọ 41 tuổi. Cụ bà là Ngô Thị Thiểm, người Kim Châm, mất 17/7 (19/7 ?),thọ 82 tuổi. Cụ đông con cháu (8 nam: Huỳnh, Dứa, Tình, Minh, Viêm, Tập, Khái, Rặc. Mỗi Nam lại có 2-3 người con Trai) nổi tiếng cả vùng một thời, các họ, chi khác đều vị nể.
Trong số hậu duệ của cụ Hinh có:

III.5.2.1- Ở lại quê :
* Đời thứ 6 :
L.Đ. Thông (là con ông Tình), vợ là Đặng Thị Quắm[9]. Năm 1964 đi Lào Cai ở An Phong[10] từng làm Đội phó và là lão nông có kinh nghiệm. Năm 1968 về quê ở ngay đầu làng Hương[11]. Có 2 trai, 3 gái:
L.Đ. Bình (bố là Minh), sinh 2 Nam: Yên, Tĩnh[12], 1 gái: Bạch. Các cháu trai nhà ở cạnh Nhà thờ Tổ.
L.Đ. Khải (con ông Khái) lấy 2 vợ sinh được một Nam là Chủng (SN 1955) nhưng đã hi sinh trong Kháng chiến CM khi chưa lấy vợ. Cụ là người thọ nhất họ (lúc mất 92 tuổi).
* Đời thứ 7:
L.Đ. Thực (bố là Tơn (Tiên) ông là Cụ cả Huỳnh) nhà ở Hạ, giữ việc cúng Tổ Ngành Ba, mất năm 2006. Thực và Nhiếp (con trai L.Đ.Liêm) là 2 anh em đồng hao. L.Đ. Thực có con trai lớn tên là Ty, ở nhà làm ruộng.
L.Đ. Nên (con L.Đ.Thông) đi làm xa ở Vinh. 3 gái (Reo,Tị, Nạnh). L.T.Reo khi gia đình còn ở Lào Cai đi TNXP sau chuyển về Nông trường Phú Xuân, lấy chồng và lập nghiệp ở Giao Ngay (Gia Phú, Bảo Thắng, Lào Cai).

III.5.2.2- Lên Lào Cai (LƯƠNG ĐỨC TÂM) :
L.Đ. Tâm[13] (Đời thứ 7, bố là Chiểu, mẹ là Vũ Thị Tám, ông là Dứa).
Vợ cả ở quê, sinh 2 Nam : Đức, Lễ kinh tế khá ở lại đất cũ. Bà này và 02 gái đã chuyển vào Đắc Lắc sinh sống.
Sau khi lấy vợ hai tên là Có, năm 1974, lên Lào Cai, ở Làng Mạ, xã Trì Quang, Bảo Thắng. Sinh tiếp 11 con. Có 2 trai lớn thì 1 bị đánh, 1 bị bệnh chết (Phú), còn lại 3 Trai: là L.Đ.Hậu (vợ, con ngay tại Làng Mạ), L.Đ.Vương và L.Đ.Chức cùng 06 Gái (Phương, Xa, Vân, Yêu, Thương, Tới): đều không học hành gì[14].
Do thiếu tính toán, ít vốn lại đẻ nhiều nên cuộc sống chật vật. Năm 2006 bố con L.Đ.Tâm đánh nhau với Đặng Văn Tăng (con Lương Thị Huấn và Đặng Văn Thoả), Chức bị xử tù 2 năm 6 tháng.

III.5.2.3- Hậu duệ các Cụ Viêm, Tập, Rặc :
Ít liên quan về cuộc sống với Chi út Ngành Ba và không có tư liệu nên không rõ để chép ra đây.

III.5.3.1- Cụ không có cháu trai :
Thường gọi là Cụ giáo Chinh (vì cụ dạy học). Đất cạnh đình Hương, sau này L.Đ. Thông và con cháu ở. Chưa rõ tên cụ bà, ngày mất và mộ phần. Cụ sinh 2 Nam là Trược (vô tự) và Khuông. L.Đ. Khuông, thường gọi là Cụ Hội Khuê làm giáo học. Cụ không có con trai, chỉ 2 gái. Do vậy từ đời 5 trở đi dòng này dứt hẳn[15].

III.5.3.2- Hai cháu gái của cụ Chinh trên Lào Cai:
Hai con gái cụ Khuông, sau này gia đình lên khai hoang tại Lào Cai. Đó là:
-L.T. Khuê lấy Nguyễn Văn Khánh[16] ở Lang Thượng, Mĩ Đức, An Lão. Năm 1962 lên Sơn Hải, Bảo Thắng. ốm mất năm 198?, có 1 Nam, 2 Nữ ở Bảo Thắng:
N.V. Tích nhà ở Phố Lu có vợ và 4 con, trước làm mộc. Từ 2000 lập Đoàn Nhạc Hiếu, hoạt động có uy tín trong huyện Bảo Thắng. N.T. Phương (Ích) và N.T.Hương (Mích[17]) là GV nghỉ hưu ở X.Quang, đều không lấy chồng.
-L.T. Huấn lấy Đặng Văn Thoả[18] cùng làng. L.T.Huấn là người được học nhiều nhất trong số con gái Lương tộc (ông và bố đều làm thày đồ) tháng 2/1964 lên khai hoang ở An Phong, cuối năm chuyển sang Trì Quang. Sau mấy năm bị bệnh thần kinh (Kị 7 tháng 11). Hai vợ chồng đều mất ở Trì Quang. Con trai (Tăng, Cường, Còn) lấy vợ, lập nghiệp ở Làng Mạ, Trì Quang, lối vào rất khó khăn, con cái học hành ít. Con gái (Minh, Mãn) lấy chồng bên Sơn Hải. Tháng 3/2001 Cường cũng chuyển sang đó.

III.5.4- Cụ Thành và hậu duệ:
Mất ngày 21/2 (10/02 ?). Cụ bà là Đặng Thị Sâm (kị 3/10) và Nguyễn Thị Hay (kị 24/5). Sinh 3 nam: Trầm (26/5), Trạm (03/6), Uông (02/9). Cả 3 đều sinh gái[19] không có con trai nên từ đời 4 trở đi dòng này không còn nam.

III.5.5- Cụ Trinh (Tổ ngành út) Do vùng đồng bằng Bắc kỳ nói ngọng, không phân biệt được Tr-Ch, L-N...nên cụ 梁德禎 được gọi là “Trinh bé” để phân biệt với “Chinh lớn” là anh 梁德征. Đây là cụ Tổ ngành nên sẽ chép kỹ ở phần sau.
-ĐÃ VAY DÒNG MÁU THƠM THIÊN CỔ,
PHẢI TRẢ CHO TA MẠCH GIỐNG NÒI-
[1] Chồng bà là ông Thỗn,bác ruột mẹ tôi. Các cụ này đẻ ra Cậu Kiệm đi Nam 1954, không tin tức và cậu Thiêm (kị 08/11/1994 và là bố đẻ anh Hấng, đời thứ 12 Phạm tộc Cốc Tràng).
[2] Thường được gọi là Tiên Mạo, vừa dạy học, vừa bốc thuốc, hiền thục. Đáng tiếc cuốn Gia phả ngành Ba này do Cụ soạn đã thất lạc, chỉ còn lưu trong trí nhớ của vài người cao tuổi.
[3] Đúng ra ông mất từ hôm trước, ngày 01 mẹ là Cụ Còi mất nên sau này giỗ chung 01/11.
[4] Bác mất sớm nên các anh rất vất vả, không được học hành gì. Đến lượt các anh cũng yểu mệnh. Ngược lại các anh con bác Liêm thì rất Thọ.
[5] Lẽ ra cháu phải cúng cố Hanh song chắc vì nhà chật nên chuyển sang nhà anh Riếp (có con trai là Thuần). Sau khi cháu Tơ đã làm nhà ra đường lớn có ý định tiếp nối việc Thờ cúng. Xin nói thêm:Bác Công mất sớm nên các anh Hồng, Đào sống khổ, không được học hành gì.
[6] Nhà anh Hiệp ở phía trước nhà tôi hồi ở quê. Hảo cùng tuổi,đẻ trước tôi vài ngày.Vì anh Tiêm không con trai,Hiệp là cháu nội đầu tiên của bác Liêm nên được bác cưng chiều.Thủa nhỏ ngại học,ham chơi.Lớn nhác làm chỉ giỏi cờ bạc,vợ con bỏ về bên ngoại,một mình quay lại bám bố mẹ.
[7] Chị là em con dì của bác Nhỡ (cháu gọi bà nội tôi bằng cô ruột), nhưng lại là cháu gọi bằng chú, nếu theo họ Đặng.
[8] Năm tính hơi "hấy", lận đận chồng con (6 con với 3 người bố). Sáng 22/7/2002 (13/6) 3 mẹ con bị ngộ độc (2 đứa con sinh đôi năm 1995 tên là Bình, Yến của anh chồng người H'Mông), cấp cứu không được, chết cả 3 mẹ con,kèm cái thai 4 tháng. May mà 2 cháu lớn không có ở nhà. Cải táng ngày 01/12/2008, có anh Diệm và 10 cháu nội ngoại của bác Liêm lên. Xong việc, ngày 02/12 có sang An Phong chơi.
[9] Bố cô lại là em bà nội tôi.Trước khi lấy Bác Thông, cô đã lấy cậu Đào Văn Căng ở Hạ. Cậu Căng gọi bà ngoại tôi là Cô ruột. Sau khi sinh 2 anh tôi không nuôi được, bố mẹ tôi đã xin con gái 2 bác về nuôi sau mới đẻ ra anh em tôi.
[10] ở mảnh đất mà Dì ruột Tràng là Tích-Chập bây giờ đang ở. Chính bác là người đọc bài “Đường đi trăm núi nghìn trùng...” cho tôi chép gửi về quê hồi đầu 1964.
[11] Trên mảnh đất vốn là nền nhà xưa của cụ Hội Khuê, gần đình làng. Lẽ ra là đất thừa tự của Chú Rật tôi. Vì cụ Chinh không có cháu Trai nên theo nguyên tắc “chiêu mục”, “vô tử dụng tôn”, ông tôi 2 trai đưa chú tôi là Rật sang Thừa tự, lo việc hương khói sau này. Nhưng vì chuyện đất cát gì đó nên khi ông tôi bỏ làng đi rồi bà tôi không cho chú tôi sang ở nữa
[12] Chính các anh là thày dạy tôi năm Vỡ lòng (tương đương Lớp 1 bây giờ) học ở đình Hương -1962 (khi gia đình tôi lên Lào Cai rồi Đình mới bị phá bỏ)
[13] Có người nói: bác Chiểu không con ra Vàng Danh - Cẩm Phả ở và nuôi anh từ lúc sơ sinh, khi về quê nói là do bác gái đẻ ra. Nhưng cũng có người bảo L.Đ.Tâm chính là con “ngoại tình” của bác Chiểu, được ông bà nuôi ngay từ lúc mới lọt lòng. Bác Chiểu là người sau này có công viết lại Gia phả ngành . Đây là tư liệu chủ yếu tôi dùng để viết Quyển 1 và quyển này.
[14] Trong số 13 trai đời thứ 7 của Lương tộc Cao Mật trên đất Lào Cai thì L.Đ.Tâm và L.Đ.Thiếp “nổi nhất” về việc “khai hoá văn minh” cho dân bản địa (!) về đường vợ con và “va chạm” với luật pháp, đã để lại nhiều giai thoại. Tôi rất giận nhưng nhiều bận vẫn phải can thiệp tới các cơ quan THTT và Bệnh viện Bảo Thắng.
[15] Đúng ra ban đầu, bà tôi đã cho chú Rật tôi sang làm con theo nguyên tắc “Chiêu mục” và sẽ ăn thừa tự của cụ nhưng vì lời ra tiếng vào gì đó chuỷện đất cát nên bà lại cho chú về. Về tục lệ bố tôi là “Trưởng tràng” lẽ ra chăm lo hương khói thầy nhưng vì gia cảnh, ông tôi lại bỏ đi sớm nên việc này không thực hiện được.
[16] Bác có vốn chữ Hán khá, từng “bút đàm” với CNQP Trung Quốc những năm 1966.
[17] Khi tôi học Lớp 2 bên Sơn Hải, chị Mích học lớp 1.Vì là Lớp ghép nên do thày Chiên người Tầy dạy. Ông ngoại và bố đều là thầy đồ ,nhưng anh Tích lại không theo nghiệp,không hề biết đến chữ Nho ! Nhưng sau này tự dưng lại đi cúng và theo nghiệp Kèn hiếu khá nổi danh.
[18] Là em ruột bác Nhỡ ở An Phong, Phong Niên và gọi bà nội tôi là Cô ruột.
[19] Ba cô lấy chồng ở Kim Châm, Mỹ Đức, An Lão nhưng không mấy liên hệ với dòng tộc nên không rõ con cháu thế nào.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!