[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


27 tháng 6 2009

II. Đệ Nhị đại Tổ: LƯƠNG CÔNG TÚ

Nhị Tổ lấy 4 vợ, con cháu nay có khắp từ Nam ra Bắc, từ xuôi lên ngược.
II.1- Thân thế:
第二代祖 梁公秀 con thứ Ba của Tổ, thuỵ Đức Long[1] 德隆, người thuần thục, gia tài giầu có nhưng muộn đường con cái. Kị ngày 29/5 (có nơi ghi là 24/5).

II.2- Cụ có 04 vợ:
II.2.1- Bà cả: Đào Thị Cỏn (Nhượng) :
Người cùng làng. Kị ngày 18/2, không con. Cụ thạo việc, quán xuyến giỏi nhưng rất ghen[2]. Lúc đầu định không cho chồng lấy vợ lẽ, sau đổi ý cưới cho chồng 3 người thiếp nữa. Theo truyền lại thì Cụ Đồ Thiệu lập kế, cho người nhà ra cày ruộng của cụ Tú và nói rằng: “anh chị không người nối dõi, ruộng để em làm, không người ngoài họ lấy mất, phí đi”. Cụ Cỏn (Nhượng) biết chuyện, bực quá mới để cho cụ ông lấy thêm thiếp và thề rằng kể cả lấy người ăn mày, nếu người này có con.
II.2.2- Bà hai: Nguyễn Thị Dụng:
II.2.2.1- Quê, ngày kỵ và con:
Cụ người Đông Am, Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Mất ngày 19/2.
Bà này sinh được 01 nam là Lương Đức[3] Xưng (kị 27/02 hay 27/Giêng), vợ là Vũ Thị Đào, kị 15/10.
L.Đ. Xưng sinh 2 Nam là: L.Đ.Hợp, L.Đ.Hoà.
II.2.2.2- Hậu duệ đã vào Nam:
L.Đ. Hợp 合 (kị 04/9) sinh ra L.Đ. Nhuận 润. Cụ Nhuận có 9 nam (Thưởng, Khiết, ?...), theo đạo Thiên chúa, di cư vào Nam năm 1954 sau Hiệp định Giơnevơ. Khi nước nhà Thống nhất (sau 1975) một số (Miễu) tiếp tục vào Sài Gòn sinh sống. Tại quê không còn ai.
II.2.2.3- Hậu duệ ở Tôn Lộc:
* Đời 4 : L.Đ. Hoà 和 (kị 04/9 hay 03/7 ?) vợ là Nguyễn Thị Tích (15/6) sinh ra L.Đ. Ổn 稳 và L.Đ. Mục 穆.
* Đời 5: L.Đ.Ổn[4] từng làm Chánh tổng 正總 tước Bá hộ 伯户 đã đưa gia đình xuống vỡ hoang cạnh Cốc Tràng, gần đê Văn Úc lập ra xóm Trại (Tôn Lộc, cách làng cũ 1, 5 Km). Cụ sinh 8 Nam:
* Đời 6 : Thắng (vô tự), Liên (con là Phất, Bường), Tuế (con là Toái, Tức, Sưu, Thuế), Sắc (con là Xảo, Bạt, Trù, Cấy), Nhương (con là Thao, Lợi), Toại (vô tự), Chuyển (vô tự), Thiểm ( mất 08 tháng G Mậu Tý 2008, 1 LS còn 1 là Hiền) và 3 nữ (Nghiêm, Cậy, Đoàn). Trong hậu duệ cụ Ổn có :
* Đời 7 :
L.Đ. Bường : sau về Hạ ở và giữ phần cúng Tổ ngành (19/2).
L.Đ. Trù ( SN 1933, là con trai L.Đ.Sắc, vợ là Hoàng Thị Phệ) ở Lộc có con là Vương (SN 1962), lấy P.T. Bòn (SN 1963) ở Cốc Tràng[5]. Vương - Bòn được 2 trai là Lương Đức Cương (SN 1990, từ năm học 2008 vào học tại Đại học Thủy lợi) và Lương Đức Quyền (1991).
II.2.2.4- Hậu duệ chuyển nơi khác:
L.Đ. Mục chuyển sang Tứ Kỳ, Hải Dương. Cụ sinh 3 Nam đã đi Tân thế giới, 3 gái ở bên Hải Dương không liên lạc gì với dòng tộc.
II.2.2.5- Hậu duệ lên Lào Cai (LƯƠNG ĐỨC THUẾ):
L.Đ. Thuế[6]: SN 1929, con cụ Tuế, vợ là Trần Thị Nhung, người làng Mĩ Lang, Mĩ Đức, An Lão. Do không có đất ở Tôn Lộc đã lên Kim Côn làm ăn rồi lại trở về làng, đến 1971 lên lập nghiệp ở thôn Nhò Trong, xã Trì Quang, Bảo Thắng.
Sinh 10 con, trưởng thành 9, có 5 nam, 4 nữ:
* Đời thứ 8 (thế hệ 2 ở Trì Quang) : L.Đ.Trường (trước là Ưởng, SN 1958), L.T.Nhinh (1959), L.Đ.Nghiệp (1962), L.T.Dinh (1965), L.Đ.Năm (1968), L.Đ.Sáu (1971), L.T.Bẩy (1974), L.Đ.Hậu (1980), L.T.Mười (1983). Tất cả mấy cha con đều làm nông nghiệp ở quanh Đội 4, Nhò Trong, Trì Quang; không ai đi công tác hay làm ăn xa nơi đây.
II.2.3- Bà Ba: Hoàng Thị Châu:
Cụ người Tôn Lộc, không rõ ngày kị và mộ phần. Là thân mẫu của: Lương Đức Hanh[7].
II.2.4- Bà tư: Đặng Thị Chiền:
Cụ người Vĩnh Lại 永賴, Hán Chiều. Sinh 4 nam là Lân, Mã, Li, Phượng.
* Đời thứ 3: L.Đ.Lân sinh tam nam: Hổ, Vũ, Nghiêm; L.Đ Mã sinh 2 nam: Hồi, Quế; L.Đ.Ly sinh 2 nam: ?, Lâu; L.Đ.Phượng sinh Mỹ.
* Đời thứ 4: L.Đ.Hổ sinh 4 nam: Hoằng, Quyến, Hiển, Hiểu; L.Đ.Vũ sinh 2 nam: Dũng, Mãnh; L.Đ.Nghiêm sinh: Giảng, Thuyết, Nghị, Huyến; L.Đ. Hồi sinh Sâm, Truật…
Con cháu ở Hạ[8], một số theo Đạo Thiên chúa giáo.
II.3- Về ngày Giỗ Tổ ngành:
Đúng ra việc Giỗ Tổ Ngành Ba là vào ngày 24 (có chỗ viết 29) tháng 5 (ngày kị của Tổ phụ Lương Công Tú) và do hậu duệ cụ Hợp đảm trách. Nhưng con cháu cụ Hợp theo Đạo, đi Nam năm 1954, con cháu cụ Hoà ở xa trên xóm Trại và sau 1975 cũng vào Nam, quan viên họ họp lại thấy tháng 5 bận thu mùa nên đã chuyển việc giỗ họ từ ngày kị Tổ phụ sang ngày kị Tổ mẫu (19/2) và thực hiện tại nhà Lương Đức Thực ở Hạ. Sau khi L.Đ.Thực mất, từ năm 2006 chuyển Lương Đức Bường[9], nghi lễ thường đơn giản.
Vì sinh kế, con cháu, kể cả trong cùng chi phái, không thể quanh nơi Tổ gốc. Việc lập Bàn thờ Vọng, tiến hành Giỗ Vọng (望拜, tức Vọng bái) vừa đảm bảo giữ được chữ Hiếu 孝 với Tổ Tông và lại giữ được chữ Đễ 悌 với anh em. Trên Lào Cai vì khá đông con cháu đã thực hiện trong các năm 1989, 1993, 2007 tại Phong Niên, nhưng chưa thành phổ biến và một số thành viên chưa tích cực tham gia.
-GIỌT MÁU ĐÀO HƠN AO NƯỚC LÃ
[1] Thủa xưa nam đến 20 tuổi phải có “Tự”, chỉ rõ chí hướng tâm tư 德隆,có hàm ý “đạo lý tốt đẹp”.
[2] Các bậc cao niên có kể lại rằng: trước khi đi ngủ cụ cho Cụ ông vào túi vải rồi thắt miệng túi lại
[3] Từ đời thứ 3 con cháu ngành trưởng, ba và út lấy chữ Đức 德 làm tên đệm.
[4] Theo một số người nhớ lại thì cụ Bá ổn là người có công nhiều với dòng họ:dựng lại Từ đường,cùng với cụ Bá Lăng lập mưu đổ vụ cụ Cai Huỳnh đâm chết người cho nhà cụ Chánh Mai để nhẹ tội. Nghe đâu trận này máu chảy thấm ruộng cày, Quan về bắt có 8 nam phải đi tù.
[5] Chính là chị Bòn con gái Cậu Kiểm ,anh trai cả mẹ tôi,chị là con bà hai.Do đó theo họ Mẹ tôi gọi Vương là anh,theo họ Nội thì Vương gọi tôi là chú.Vương có nhà ở ngay quán Hương.
[6] Đời thứ 7,bằng vai và là anh tôi,. Vì sinh kế đã từng lên Kim Côn làm ăn sau lại về làng. Khi đó ruộng đất đã bị anh em chia phần hết, bỏ đi Lào Cai. Vì vậy, giận với anh em nên ra đi và cũng ít về quê.
[7] Sẽ viết kỹ ở đời sau.
[8] Ít liên quan đến gia đình tôi nên tôi chưa nhớ ai là Trưởng Chi này, chưa liên hệ với ai nên không có tư liệu để chép ra đây. Tôi chỉ biết rằng trong số hậu duệ hiện tại có cháu xa đời của cụ Cai Hoàng là Thửa (con chú Táp, cháu ông Hiến) lấy vợ ở Cốc Tràng không hiểu thuộc dòng này hay dòng cụ Huỳnh.
[9] Con cụ Liên, cháu cụ Bá Ổn., thuộc dòng trưởng “thế”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!