[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


30 tháng 4 2009

Thau chua rửa mặn XỨ HẢI ĐÔNG

Gặp lúc đói loạn 貧戶年饥 thời Lê - Trịnh 黎郑, Tổ rời quê ở Đăng Lai, Tiên Minh sang lập nghiệp ở làng Hương 廊芗 thuộc tổng Cao Mật 高密總, huyện An Lão 安老縣 cùng trấn Hải Dương 海洋鎭 tức lộ Hải Đông 海冬路 xưa.


A.1.1. Lập làng, khai nghiệp bến sông Văn :
Làng Hương 廊香 (tên chữ xưa là Phương Lạp 方粒) là một làng nhỏ, dân ít ở giữa tổng Cao Mật 高密總, huyện An Lão 安老縣, phủ Kiến Thuỵ 建瑞府, trấn Hải Dương 海陽鎭.
Chiến Thắng là tên mới (có từ 1951) của Cao Mật 高密總 và xa hơn là Cảnh Hưng xưa chưa rõ được khởi dựng từ khi nào .
Sẽ viết chi tiết về thôn Phương Hạ và xã Chiến Thắng trong bài viết "Làng xã QUÊ TÔI".
A.1.2. Chân núi Ông Voi, An Lão đến :
Tuy có Núi Ông Voi 象山 nhưng An Lão (安老=bình yên lâu dài) là vùng đồng bằng, thuần nông, hình thành cách đây vài nghìn năm và cũng là một vùng đất phát triển văn hoá phi vật thể khá sớm, là một trong những cái nôi của nền giáo dục Việt Nam thời phong kiến.
Thời Hùng Vương nơi đây thuộc bộ Dương Tuyền (Thang Tuyền). Thời Bắc thuộc là đất huyện Câu Lậu; đời Lý thuộc Hồng lộ. Qua nhiều lần thay đổi với những tên gọi khác nhau, trở thành một huyện từ thời Trần (gồm đất đai của An Lão, Kiến Thuỵ, Kiến An và Đồ Sơn hiện nay) thuộc châu Đông Triều, phủ Tân Hưng. Năm 1469, Vua Lê Thánh Tông cắt phần An Lão lập huyện Nghi Dương, về sau thuộc phủ Kiến Thụy (7 huyện: Nghi Dương, Giáp Sơn, Đông Triều, An Lão, Kim Thanh, An Dương, Thuỷ Đường. Thời Nguyễn, phủ Kinh Môn lĩnh hai huyện, tính nhiếp 1 huyện là: Giáp Sơn, Thuỷ Đường và Đông Triều) trấn Hải Dương. Sau đó, vì Hải Dương đã được bình định sau các loạn, nên 1741, Trịnh Chúa chia làm bốn đạo: Thượng Hồng, Hạ Hồng, An Lão, và Đông Triều, mỗi đạo đặt một chức tuần thủ để chiếu theo địa phận vỗ về dân chúng. Tháng 9 nhuận năm Cảnh Hưng thứ 28 (Đinh Hợi, 1767), Trịnh Sâm lấy cớ rằng nhân dân trong nước điêu tàn hao hụt, nếu đặt nhiều quan chức chỉ phiền nhiễu cho dân, bèn thi hành việc hợp lại hoặc bỏ bớt gồm 4 phủ, 29 châu huyện. Những phủ và châu huyện này đều cho phủ huyện tiếp cận tùy tiện kiêm lý. Khi đó An Lão do Thuỷ Đường kiêm lý. Sau này trở thành một huyện của tỉnh Hải Dương (1831); từ năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) nằm trong Phủ Kiến Thuỵ 建瑞府 (gồm 4 huyện: Nghi Dương 宜陽, Kim Thành 金城, An Dương 安陽 và An Lão 安老) do huyện Kim Thành kiêm nhiếp (từ 1851). Sau thuộc tỉnh Hải Phòng vào năm 1887 và do phủ Kiến Thụy 建瑞府 kiêm nhiếp.
Khi lập tỉnh Kiến An (02/1906) An Lão thuộc tỉnh này, gồm các xã: An Luận, Văn Đẩu, Phù Lưu, Biều Đa, Cao Mật, Du Viên, Đâu Kiên, Câu Thượng, Quan Trang, Phương Chử, Đại Hoàng, Đại Phương Lang: 安論,文斗,芙畱,裒多,高密,榆圜,兜堅,枸上,觀莊,方渚,大黃,大方榔. Sau Cách mạng 8/1945 tên các xã hầu như đã thay đổi nhưng địa giới không mấy điều chỉnh. Những năm CCRĐ và cải tạo XHCN, một số xã được chia tách.
Năm 1969 nhập với Kiến Thuỵ thành An Thuỵ. Đến 1980, 16 xã cũ của An Lão nhập vào thị xã Kiến An thành huyện Kiến An . Đến 8/8/1988 tái lập huyện An Lão theo Quyết định số 100/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng. Khi Kiến An và Đồ Sơn, Kiến Thuỵ nâng thành Quận thì một số thôn, xã của An Lão được cắt về đó và địa giới An Lão thu hẹp lại.
Đây là một huyện nằm về phía tây nam, cách trung tâm thành phố khoảng 18km. Phía bắc giáp huyện An Dương, phía đông giáp quận Kiến An, phía nam giáp huyện Tiên Lãng, đông nam giáp huyện Kiến Thụy, phía tây và tây bắc giáp huyện Thanh Hà và huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương. Có diện tích tự nhiên là 11.458,45 ha (số liệu đến năm 2003) chiếm 7,4% diện tích Hải Phòng. Huyện có 16 xã và 1 thị trấn là: Thị trấn An Lão, Xã Bát Trang, Xã Trường Thọ, Xã An Tiến, Xã Quang Trung, Xã An Thắng, Xã Tân Dân, Xã Tân Viên, Xã Chiến Thắng, Xã An Thái, Xã Trường Thành, Xã Quang Hưng, Xã Quốc Tuấn, Xã Trường Sơn, Xã Thái Sơn, Xã Mỹ Đức, Xã An Thọ .
Những công cụ lao động của người cổ (rìu đá, bụn đỏ, quả cân đá, bàn mài đá...), những vũ khí (giáo đồng, dao găm đồng...) đã minh chứng rằng vùng này đó có con người sinh sống từ lâu đời và có một thời kỳ phát triển của văn hóa Đông Sơn ở núi Voi - Xuân Sơn . Dân số của huyện là: 126.939 người (số liệu đến tháng 3 năm 2004), chủ yếu là người Kinh .
Địa hình đồng bằng phù sa sông Thái Bình, giữa là vùng đất cao, tây bắc và đông nam thấp hơn, độ cao trung bình 0,7 - 1,2 m, có đồi núi sót: Núi Voi, Mã Yên, Vụ Sơn, Đầu Sơn. Sông chính: Lạch Tray, Văn Úc, Đa Độ chảy qua. Giao thông: quốc lộ 10, tỉnh lộ 211 chạy qua, đường thuỷ trên sông. Tuy có núi Ông Voi , là vùng nước lợ nhưng nhìn chung, sau mấy nghìn năm di cư từ vùng trung du xuống, qua bao thế hệ, dân chúng đã quên rừng, nhạt biển nên là một huyện nghèo, ít ngành nghề. Trồng lúa, ngô, lạc, khoai lang, khoai tây, sắn. Sản xuất gạch, ngói. Sang TK XXI, danh thắng Núi Voi trong vòng cung du lịch: Núi Voi - Đồ Sơn - Cát Bà nổi tiếng của Hải Phòng, cùng với tuyến “du khảo đồng quê” để kết hợp và khai thác tốt hơn tiềm năng du lịch với hai huyện Tiên Lãng, Vĩnh Bảo đã mở ra nhiều hứa hẹn. Trong 66 di tích cấp thành phố được xếp hạng từ 1998 của Hải Phòng thì trên địa bàn An Lão có: Đình Câu Trung (Xã Quang Hưng), Đình Câu Hạ, Chùa Cầu Đông (Xã Quang Trung), Chùa Đông Nham (Xã Quốc Tuấn), Đình chùa Tiên Cầm, Chùa Thạch Lựu, Từ đường Tam Tiến sỹ (Xã An Thái), Nhà truyền thống Mỹ Lang (Xã Mỹ Đức), Chùa Tôn Lộc (Xã Chiến Thắng), Chùa Việt Khê (Xã Tân Dân), Cụm di tích Trạng nguyên Trần Tất Văn (Xã Thái Sơn), Đền Kinh Điền (Xã Tân Viên), Đình - đền - chùa Văn Tràng (Xã Trường Sơn), Đên- chùa Liễn Luận (Xã An Thắng).
Những ngày đầu mới thành lập (1988), tình hình huyện hết sức khó khăn: là huyện thuần nông, độc canh cây lúa, sản xuất manh mún và lạc hậu, điểm xuất phát thấp: kinh tế xã hội kém phát triển, số đông nhân dân đời sống còn gặp nhiều khó khăn, lao động trong độ tuổi thiếu nhỡ việc làm trở thành vấn đề bức xúc. Cơ sở hạ tầng thiếu thốn hầu như không có gì, cơ quan Đảng, chính quyền không có trụ sở làm việc, không có các công trình phục vụ đời sống văn hoá tình thần của nhân dân, không có đến 1 Km đường nhựa, chỉ có 15% hộ dân được sử dụng điện thắp sáng, không có công trình nước sạch, trạm y tế, nền kinh tế của huyện hết sức khó khăn trên 90% sống bằng nghề nông, thu nhập bình quân đầu người rất thấp nguồn thu thấp, nhu cầu chi lớn, thường xuyên mất cân đối thu chi. Đội ngũ cán bộ vừa thiếu, vừa không đồng bộ; Một số mâu thuẫn giữa một bộ phận nhân dân với cán bộ khá gay gắt, trở thành điểm nóng, tình hình an ninh nông thôn diễn biến khá phức tạp, hệ thống chính trị một số nơi bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém.
Với truyền thống quê hương Núi Voi bất khuất, kiên cường, Đảng bộ quân và dân trong huyện đã phát huy truyền thống đoàn kết khắc phục khó khăn, chủ động kiên trì lao động sáng tạo, liên tục phấn đấu hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng huyện ngày càng phát triển mạnh.
A.1.3. Kiến An tỉnh cũ, Hải Phòng nay :
Vïng đất ven biển phía Đông miền Duyên hải Bắc Bộ cách nay khoảng từ 1vạn đến 6-7 nghìn năm đã từng là vùng ngập nước, có rừng xen kẽ những dải đất cao, địa hình tương đối ổn định cách đây khoảng 70 triệu năm do phù sa bồi đắp mà thành. Ngay từ thời kỳ đồ đá đã có sự tồn tại của nhiều nhóm người cổ sinh sống. Các cuộc khai quật khảo cổ học đã cho thấy cách ngày nay khoảng 10.000 - 30.000 năm trước vùng này đã có cuộc sống của con người và họ đã biết sử dụng công cụ thô sơ bằng đá cuội, nhiều lớp văn hoá nối tiếp nhau, hình thành một chuỗi dây lịch sử liên tục từ đầu Thời đại đồng đến đầu Thời đại sắt trên chặng đường 20 thế kỷ trước công nguyên, minh chứng cho một thời kỳ phát triển của văn hóa Đông Sơn ở núi Voi - Xuân Sơn. Những nhóm cư dân đầu tiên của vùng châu thổ sông Hồng là từ các vùng đồi núi xuống vùng đồng bằng và từ đời này sang đời khác đã khai hoá đất để trồng trọt. Họ đã tạo ra một hệ thống đê điều để chế ngự dòng sông Hồng. Nhiều cụm dân cư hình thành ngày càng lấn ra biển, các thế hệ nối tiếp nhau quai đê lấn biển, thau chua, rửa mặn tạo thành đồng ruộng, lập nên xóm làng. Quá trình lao động không ngừng để chế ngự nước - chống lũ, lụt, bão, hạn hán, xây dựng đê điều, đào kênh phục vụ cho việc trồng lúa - đã tạo nên nền văn minh lúa nước và văn hoá làng xã.
Vùng đất cổ này thời Hùng Vương là lộ Dương Tuyền 陽泉 hay Thang Tuyền. Trong thời Bắc thuộc thì vào đời Tần thuộc Tượng Quận; Hán là địa phận huyện Chu Diên, Câu Lậu quận Giao Chỉ, bộ Giao Châu, nổi tiếng trong lịch sử khi nữ tướng Lê Chân khai phá lập nên trang An Biên ở đây và được gắn với các cái tên Hải tần phòng thủ 海嬪防守. Đến thời độc lập tự chủ của các triều đại phong kiến Việt Nam, vùng này lại nổi tiếng với các chiến thắng trên sông Bạch Đằng: trận Bạch Đằng, 938 của Ngô Quyền, trận Bạch Đằng, 981 của Lê Hoàn; thời Trần là Hồng Lạc, là lộ Hải Đông 海冬路 gắn với trận Bạch đằng của Trần Hưng Đạo (1288), sau chia làm các phủ lộ Hồng Châu và Nam Sách; đời thuộc Minh là đất 2 phủ Lạng Giang và Tân An. Năm Thuận Thiên đời Lê (1010 -1028) gọi là Đông đạo; năm Diên Ninh (1454-1459) chia làm Nam Sách Thượng lộ, Nam Sách Hạ lộ; đời Quang Thuận (1460-1469) đặt làm Nam Sách thừa tuyên; năm thứ 10 (1469) định bản đồ, gọi là Hải Dương thừa tuyên 海陽, lĩnh 4 phủ, 14 huyện; năm Hồng Đức thứ 21 (1490) định bản đồ, đổi xứ Hải Dương làm trấn. Nhà Mạc 莫朝, vì Nghi Dương là quê hương nên vùng này được chú ý xây dựng thành kinh đô thứ hai gọi là Dương Kinh 阳京 và cho phủ Thuận An của Kinh Bắc, Khoái Châu của Sơn Nam và các phủ Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình lệ vào. Thời Lê Quang Hưng (1578-1599) lại đổi theo trấn cũ; năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741) chia làm 4 đạo: Thượng Hồng, Hạ Hồng, Đông Triều và An Lão; đời Tây Sơn lấy phủ Kinh Môn đổi lệ vào Quảng Yên.
Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, lên ngôi vua vào năm Nhâm Tuất 1802, lần đầu tiên quản lý một đất nước thống nhất, Gia Long chia cả nước thành 23 trấn, 4 doanh. Khu vực Bắc Bộ được gọi là Bắc thành gồm 11 trấn. Khi đó xứ Hải Đông vẫn giữ tên gọi thời Lê là trấn Hải Dương 海陽鎭 với 5 Phủ, 19 huyện; lị sở là Kinh Môn 荊門府. Năm Gia Long thứ 9 (1810) lại lấy phủ Kinh Môn lệ vào trấn như cũ, lĩnh 4 đạo, 18 huyện. Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) đổi phủ Thượng Hồng làm phủ Bình Giang, Hạ Hồng làm Ninh Giang. Như vậy giai đoạn này trấn Hải Dương gồm 4 phủ, 18 huyện Vùng đất nay là Hải Phòng khi đó thuộc một phần Phủ Hạ Hồng (huyện Vĩnh Lại sau đổi Vính Bảo), một phần Phủ Nam Sách (là Tiên Minh, sau đổi Tiên Lãng), phần lớn Phủ Kinh Môn (7 huyện, nay có các huyện thuộc Hải Phòng là An Dương, An Lão, Nghi Dương, Thủy Đường).
Năm thứ 12 (1831) chia tỉnh hạt , trấn đổi là tỉnh Hải Dương 海陽省, có tên khác là tỉnh Đông, gồm 5 phủ, 19 huyện. Năm thứ 13 (1832) đặt thêm 2 phân phủ Ninh Giang, Nam Sách; năm thứ 14 (1833) đặt phân phủ Kinh Môn, đặt phủ Kiến Thụy và phân phủ Kiến Thụy. Năm thứ 19 (1838) đặt thêm huyện Vĩnh Bảo và phân phủ Bình Giang. Năm Tự Đức thứ 5 (1852) bỏ hết phân phủ; lấy phủ Bình Giang kiêm gộp huyện Thanh Miện; phủ Ninh Giang kiêm gộp huyện Vĩnh Bảo; phủ Nam Sách kiêm gộp huyện Thanh Lâm; huyện Thanh Hà kiêm gộp huyện Tiên Minh, phủ Kinh Môn kiêm gộp huyện Đông Triều, phủ Kiến Thụy kiêm gộp huyện An Dương, huyện Kim Thành kiêm gộp huyện An Lão. Như vậy đến thời Tự Đức, trước khi lập tỉnh Hải Phòng, đất Hải Phòng nay nằm trong các Phủ 府: Ninh Giang 寧江 (huyện Vĩnh Bảo 永保), Nam Sách (huyện Tiên Minh 先明(朗), Kinh Môn 荊門 (huyện Thuỷ Đường 水溏(源) và Kiến Thuỵ 建瑞 (Nghi Dương, Kim Thành, An Dương, An Lão:宜陽,金城,安陽,安老) của tỉnh Hải Dương.
Năm 1870 - 1873, Bùi Viện , được sự tiến cử với vua Tự Đức của Doanh điền sứ Doãn Khuê, đã thực hiện việc xây dựng một bến cảng bên cửa sông Cấm mang tên Ninh Hải và một căn cứ phòng ngự bờ biển ở liền kế bên, gọi là nha Hải phòng sứ. Công việc đang tiến hành thì ngày 23/10/1873 Pháp nổ súng đánh chiếm Ninh Hải và tỉnh Hải Dương, sau đó chiếm vùng nông thôn Kiến An. Năm 1875 Pháp độc chiếm cửa khẩu, 1886 xây dựng thành cảng kiên cố. Khi nhà Nguyễn phải ký hòa ước Giáp Tuất, trong đó quy định nhà Nguyễn phải mở cửa thông thương các cảng Ninh Hải 寧海港 thuộc tỉnh Hải Dương và Thị Nại tỉnh Bình Định, để đổi lấy việc Pháp rút quân khỏi Bắc Kỳ. Sau đó tại cảng Ninh Hải này, nhà Nguyễn và Pháp lập nên một cơ quan thuế vụ chung, quản lý việc thương mại ở vùng cảng này gọi là Hải Dương thương chính quan phòng.
Sau khi Pháp bình định xong Việt Nam, phong trào kháng chiến ở hầu khắp các nơi đều giảm đi rất nhiều nên từ năm 1887, Pháp lập hệ thống chính quyền dân sự 6 cấp: Trung ương, Kỳ, Tỉnh, Huyện, Tổng, Xã: 中央,圻,省,縣,总,社 (bỏ trấn 鎭, phủ 府 còn cấp làng 廊, thôn 村 không nằm trong hệ thống chính quyền). Khi đó Pháp cắt các huyện : An Dương, Nghi Dương, An Lão (thuộc phủ Kiến Thuỵ) và một phần huyện Thuỷ Đường (Thuỷ Nguyên) của Hải Dương lập Nha Hải Phòng 海防衙, ngày 11/9/1887 đổi là tỉnh Hải Phòng . Đến 19/7/1888 Pháp ép Đồng Khánh nhượng Hải Phòng để xây dựng thành phố. Nếu trước kia thời Minh Mạng, Bắc Kỳ có 13 tỉnh, thì kể từ 1890 trở đi ở Bắc Kỳ đã có thêm 16 tỉnh mới và 1 tỉnh được thành lập lại là tỉnh Tuyên Quang. Trong đó, ngày 31/01/1898, toàn quyền Đông Dương tách Tf Hải Phòng ra khỏi tỉnh Hải Phòng, chuyển tỉnh lị về Phủ Liễn. Ngày 05/8/1902 tỉnh Hải Phòng đổi thành tỉnh Phù Liễn cho đến 1906 đổi thành tỉnh Kiến An 建安. Từ đó, Hải Phòng là thành phố thuộc địa do người Pháp trực tiếp cai trị (Tòa Đốc lý), Kiến An là tỉnh Bảo hộ vẫn duy trì bộ máy vua quan phong kiến cai trị bên cạnh Tòa Công sứ do người Pháp nắm quyền. Tháng 8 năm 1902 tỉnh đổi tên thành tỉnh Phù Liễn, ngày 17/ 2/1906 thành tỉnh Kiến An .
Trong kháng chiến 9 năm, tháng 11 năm 1946, chính quyền VNDCCH hợp nhất Kiến An với Hải Phòng thành liên tỉnh Hải-Kiến để đối phó âm mưu mở rộng xâm lược của Pháp và tiện thống nhất lãnh đạo, chỉ huy. Đến 12/1948, do yêu cầu tình hình nhiệm vụ kháng chiến mỗi địa phương ta lại tách riêng theo địa danh cũ thành 2 đơn vị hành chính. Trong các năm 1952-1953, sau trận càn “Con sứa” ( Méduse), tháng 4/1951, Pháp lập tỉnh Vĩnh Ninh (gồm Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, Tứ Kỳ, Ninh Giang, Thuỵ Anh) nhằm tạo vành đai cố thủ cho Tf Hải Phòng. Nhưng chính quyền kháng chiến của ta vẫn giữ nguyên đơn vị hành chính cũ. Kiến An khi đó thuộc Liên khu 3 và có 5 huyện (89 xã): Tiên Lãng, Hải An, An Lão, An Dương, Kiến Thụy. Trong đó chỉ còn vùng Tiên Lãng là địch không lấn chiếm được trọn vẹn, các làng xã khác hầu như thuộc vùng tề, chịu nhiều càn quét. Ngày 4/3/1950, Kiến An được sáp nhập thêm huyện Thủy Nguyên từ tỉnh Quảng Yên.
Sau hoà bình, ngày 26/9/1955, huyện Hải An của Kiến An sáp nhập vào thành phố Hải Phòng. Sau khi hoàn thành khôi phục kinh tế sau chiến tranh, ngày 27/10/1962, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá II đã có Nghị quyết về việc hợp nhất Hải Phòng- Kiến An thành thành phố Hải Phòng. Địa danh Kiến An có thời chỉ thị xã (từ 1962), cấp huyện (1980), thị xã (1988) sau dùng chỉ quận (1997).
Hải Phòng là đô thị loại 1 - thành phố trực thuộc trung ương, một thành phố cảng và công nghiệp, là đầu mối giao thông đường biển phía Bắc. Hải Phòng có tổng diện tích 152.318,49 ha (2001) chiếm 0,45% diện tích tự nhiên cả nước: phía Bắc giáp Quảng Ninh, phía Tây giáp tỉnh Hải Dương, phía Nam giáp tỉnh Thái Bình, phía Đông giáp biển Đông. Bao gồm 5 quận (Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền, Hải An, Kiến An), 1 Thị xã (Đồ Sơn) và 8 huyện (Thủy Nguyên, An Dương, An Lão, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, Kiến Thụy, Cát Hải, Bạch Long Vĩ). Ngày 12 tháng 9 năm 2007 của Chính phủ có Nghị định 145/2007/NĐ-CP thành lập quận Kinh Dương (trên cơ sở tách 6 xã của Kiến Thụy) và quận Đồ Sơn (trên cơ sở huyện Đồ Sơn) nên Thành phố Hải Phòng gồm 7 quận nội thành (Đồ Sơn, Dương Kinh, Hồng Bàng, Ngô Quyền, Lê Chân, Kiến An) và 8 huyện ngoại thành (Thủy Nguyên, An Dương, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, An Lão, Kiến Thụy, Cát Hải, Bạch Long Vỹ).
Dân số Hải Phòng: 1.803,4 nghìn người (năm 2006) chủ yếu là người Kinh, có một ít người Hoa đến làm ăn qua các biến cố lịch sử, nhất là thời kì hậu “Thái bình Thiên quốc”太平天國 và thời thuộc Pháp. Dân chúng đa số không theo tôn giáo nào, một số theo Đạo Phật, một ít khác theo Đạo Thiên Chúa, Đạo Tin Lành.
Hải Phòng có nhiều làng cổ với nhiều ngành nghề cổ truyền và phong trào yêu nước sâu rộng. Trong tiến trình lịch sử đã xuất hiện nhiều nhân sĩ nổi tiếng ở mọi thời kì, từ thời dựng nước qua thời kì Bắc thuộc đến thời phong kiến tự chủ và trong thời cận, hiện đại . Trong đó có những nhân vật mà cuộc đời, sự nghiệp ngoài việc để lại tên tuổi với lịch sử dân tộc còn liên quan đến sự hưng vong, phiêu tán, tụ lập của Lương tộc Cao Mật. Đó là: Mạc Đăng Dung (1527), người Cổ Trai, Kiến Thụy-sáng lập ra triều Mạc ; Nguyễn Hữu Cầu ở Đồ Sơn (1741) , Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Cổ Am, Vĩnh Bảo; Phan Bá Vành …
Trong những năm đầu Thế kỉ XX Hải Phòng là cái nôi của phong trào Công nhân Việt Nam. Nhiều lãnh tụ Đảng đã “vô sản hoá” về đây hoạt động. Trong kháng chiến 1945-1954, Hải Phòng là địa bàn ác liệt và góp phần đáng kể vào công cuộc chung. Năm 1954, miền Bắc được giải phóng nhưng theo quy định tại Hội nghị Trung Giã, Hải Phòng là khu vực tập kết 300 ngày nên vẫn còn quân Pháp. Tháng 8/1954 Ngô Đình Diệm còn ra tận đây kiểm tra việc thực thi Kế hoạch phá hoại của chính quyền miền Nam. Người di cư vào Nam theo chương trình Passage to Freedom (Con đường đến Tự Do, 8.1954) từ các nơi tập trung về Hải Phòng xuống “tầu há mồm” hay lên máy bay tại Cát Bi để vào Nam . Đồng thời đây cũng là địa bàn đón tiếp cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc.
Ngày 10/5/1955 QĐNDVN tiếp quản huyện An Lão, tx Kiến An; 13/5/1955 tiếp quản thành phố Hải Phòng. Về sau ngày 13/5 được lấy là ngày Kỷ niệm giải phóng Hải Phòng .
Thực hiện chủ trương của Đảng, những năm 1960, Kiến An là tỉnh trước tiên tổ chức khảo sát và đưa dân đi khai hoang tại Lào Cai. Khi Kiến An nhập vào Hải Phòng, thành phố tiếp tục thực hiện đường lối đó.
Những năm 1965-1980, với vị trí là một trung tâm kinh tế-văn hoá, cửa khẩu giao lưu Quốc tế lớn nhất miền Bắc, Hải Phòng có vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc XHCN.Với những điển hình phá rào thay đổi cung cách quản lí ở Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, đặc biệt là “khoán chui” ở Đoàn Xá (thuộc huyện An Thuỵ, thực hiện việc chia đất, nộp sản từ 1977) , trong thời kì 1980-1985 “Hải Phòng nổi lên như một điểm sáng của cả nước trong tháo gỡ khó khăn, thực hiện cơ chế quản lí mới”.
Từ sau 1986 Hải Phòng là thành phố năng động, chủ động tháo gỡ khó khăn vươn lên, thu được nhiều thành tựu trong công cuộc đổi mới .
Bước sang thế kỉ XXI, Hải Phòng xứng đáng là địa bàn trọng điểm trong tam giác tăng trưởng: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Đồng thời đây còn là cửa ngõ thông ra biển trên trục Vân Nam-Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng trong chiến dịch Đại khai phá miền Tây của Trung Quốc và chủ trương thiết lập “hai hành lang kinh tế” là Côn Minh-Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng và Nam Ninh-Lạng Sơn-Hà Nội-Hải Phòng, cùng một “Vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ” của 2 nước. Đây cũng là nơi sản sinh ra những “đại gia” nổi tiếng một thời trong thế giới “xã hội đen”: Cu Nên, Lâm Già, Dung Hà…vụ “ăn đất” ở Tx Đồ Sơn…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!