[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


01 tháng 5 2009

Thượng Tổ: LƯƠNG CÔNG TRẠCH

Khai cơ từ thủa xa xưa,
Lập nên dòng họ, bây gìơ là đây.

1/ Thân thế:

Thượng Tổ 上祖梁公宅 vốn người Đăng Lai 登來, Tiên Minh 先明, Hải Dương 海洋 (sau cải là Phương Lai 芳來, Tiên Lãng
[1] , Hải Phòng).

Tương truyền Tổ là hậu duệ đời thứ 11 của Bảng nhãn Thượng thư Lương Đắc Bằng, sinh 1 nam, 1 nữ. Vào năm đói kém 家貧年奇 cùng với vợ (là Nguyễn Thị Lã
[2]) đem theo con gái “bên nồi, bên con” gồng gánh sang ở nhờ, làm thuê cho các gia đình họ Nguyễn, họ Mai vốn đã lập nghiệp ở Hương Hạ, Tổng Cao Mật. Họ Nguyễn vô tự, Cụ nhận lời ủy thác 寄, để con trai (Nghệ) ở lại khai cơ tại đây.

Con cháu đời sau suy tôn cụ là Thượng Tổ, người khai sáng ra dòng họ Lương ở Cao Mật: 梁皋密肇祖 (Lương Cao Mật Triệu Tổ). Mộ táng tại Kim Đới 今帶, Tiên Lãng, Hải Phòng. Mộ Tổ tỷ táng tại Triều Đông 潮東 sau cải Trung Lăng 中陵, Tiên Lãng
[3].

Cuốn Lược dịch...còn ghi: “ngoài chi sang Cao Mật con cháu là Lương Đức...Lương Hoàn..., còn có 01 chi chuyển sang Mỹ Ân, Tứ Kỳ, Hải Dương, 01 chi lên Bắc Giang và 01 chi ở lại Phương Lai” .

2/ Bối cảnh lịch sử thời Tổ khai nghiệp :



Cuối Thế kỉ XVII là thời kì mà tập đoàn Lê-Trịnh đã diệt xong nhà Mạc (1677), bắt tay vào củng cố thế lực ở Đàng Ngoài dẫn đến tình trạng Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài gần 200 năm. Từ thời chúa Trịnh Giang (1729-1740) trở đi thì do “Thượng bất chính, hạ tắc loạn” nên tình hình trở nên rối ren, chính quyền ra công chống đỡ nhưng ít hiệu quả. Tuy chăm lo đến chính sự hơn người anh nhưng Trịnh Doanh (1740-1767) lại quá tả khi cho đốt hết sách vở, thu nhặt hết chuông khánh ở các chùa chiền để đúc binh khí dẹp loạn. Điều đó đã góp phần không lấy lại được lòng dân, mặc dù trước đó quần thần và dân chúng đã ủng hộ nhiều chính sách của Chúa. Sau khi Trịnh Doanh mất, do loạn cung đình thời Trịnh Sâm (1767-1782), Trịnh Cán (2 tháng) mà đất nước càng rối ren dẫn đến việc Trịnh Khải (1783-1786) bị Tây Sơn bắt, phải tự tử. Từ đó thế lực Lê-Trịnh dần suy tàn, dẫn đến tận diệt. Về đời sống tâm linh, bên cạnh đạo Phật, đạo Nho vốn được truyền sang từ lâu đời, bắt đầu từ 1533 đời Lê Trang Tông đạo Thiên chúa giáo đã được truyền tới vùng này. Các đời Chúa Trịnh luôn cấm đoán gắt gao việc này, điển hình là Trịnh Tạc (1663), Trịnh Căn (1696), Trịnh Doanh (1754)…Do đó mâu thuẫn lương-giáo ở nhiều vùng rất căng thẳng.

Phép “Quân điền” thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn. Nhưng từ 1699 đặt phép “Bình lệ”, đánh thuế theo xuất đinh suốt cả đời lại thêm sự chiếm đoạt ruộng đất của địa chủ; chế độ tô thuế (điền thổ, thuế thân, thuế tuần ti, thuế muối, thuế thổ sản, thuế chợ...). Rồi lại đặt ra lệ Thông kinh, ai cần thi chỉ nộp 3 quan không qua khảo hạch nên trường thi biến thành chợ thi. Sưu dịch nặng nề, quan lại tham nhũng và thiên tai liên miên và do hậu quả chiến tranh nên đời sống người dân rất thấp. Nông dân luôn bị thiếu đói, cực khổ, phải “tha phương cầu thực”, bỏ làng xã ra đi tìm nơi đất hoang, vắng chủ khai phá, gieo trồng. Năm 1740-1741, sau trận lụt vỡ đê, nhiều làng, xã ở trấn Hải Dương người “chết đói chồng chất lên nhau, số dân còn lại 10 phần không được một, làng nào vốn có tiếng trù mật cũng chỉ còn 5-3 hộ mà thôi”, những người sống sót phải phiêu dạt đi khắp nơi, cố gắng dùng sức lao động còn lại, hợp quần khai phá đất hoang, ruộng bỏ hóa ở các làng, xã cửa biển, ven sông trồng khoai, cấy lúa cứu đói. Đồng thời do “bần cùng sinh đạo tặc”, trộm cướp nổi khắp nơi, lòng dân ly tán và do “tức nước vỡ bờ” người nông dân đã đã nổi dậy khởi nghĩa, chống lại triều đình. Vùng Hải Dương, anh em Nguyễn Tuyển 阮選, Nguyễn Cừ 阮蘧 (là hậu duệ của họ Mạc, đã chuyển họ) phối hợp với Vũ Trác Oánh 武卓瑩 nổi dậy ở Ninh Xá (1739-1741). Đặc biệt lớn mạnh nhất là khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu (阮有求, 1741-1751), tục gọi Quận He đã từng chiếm Đồ Sơn, Vân Đồn, Trà Cổ, làm chủ cả vùng ven biển Đông Bắc, tự xưng Đông đạo Thống quốc Bảo dân Đại tướng quân. Triều đình phái Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đình Trọng
[4] đàn áp mãi mới yên. Nhưng khắp nước luôn trong cảnh binh đao: họ Trịnh mất nghiệp Chúa (1786), nhà Hậu Lê 黎後 bị diệt (1788), triều Tây Sơn 阮西山 được 4 năm (1788-1802) thì thuộc về nhà Nguyễn 阮氏 (1802-1945). Những năm đầu triều Nguyễn, tuy triều đình đã làm chủ cả nước nhưng ngoài Bắc vẫn loạn lạc liên miên. Vùng ven biển Bắc Bộ có khởi nghĩa của Phan Bá Vành (1821-1827), Lê Duy Lượng (1833)...

Khi đó vùng gần Văn Úc Tả đồn, ở trong và ngoài đê còn nhiều chỗ trũng phù sa chưa bồi lấp đầy, nhiều bãi lăn, lác, sú vẹt chưa được cải tạo thành ruộng
[5]. Đồng thời có nhiều ruộng đã được cầy cấy rồi bỏ hoang. Vị trí khu vực lại cận sông, gần đường cái quan trở thành địa chỉ tốt để người dân quanh vùng đến khai phá ruộng, chài lưới, sinh nhai. Cư dân ngày thêm đông, lập ra tổng Cao Mật.

Thiên tai liên tiếp, chế độ hà khắc, thuế khóa nặng nề, sưu dịch phiền nhiễu, lòng dân ly tán và loạn đảng khắp nơi, chiến tranh liên miên, triều đình không rảnh tay lo mở mang, kiến thiết; dân nghèo cơ cực, phiêu cư bạt tán kiếm kế sinh nhai, trốn tránh giặc giã và quan lại... là đặc điểm cơ bản những năm 1730-1802, tức vào đời Lê Thuần Tông 黎純宗 đến thời Nguyễn Gia Long 阮嘉隆. Đó là nguyên do chính dẫn đến việc Phạm Đình Khanh 范廷牼 từ Ân Thi
[6] tới (1716), Lương Công Trạch 梁公宅 từ Tiên Minh[7] vượt Văn Úc sang Cao Mật (1740-1750? )[8] lánh nạn và khởi nghiệp, lập ra dòng họ Phạm 范族 và họ Lương 梁族 nơi đây. Các thế hệ con cháu của họ đã cùng với dân cũ họ Nguyễn 阮族, họ Mai 梅族 chung sức thau chua rửa mặn vợt đất lập làng lập xóm xây dựng nên khu vực Chiến Thắng bên bên sông Văn như ngày nay.

Như thế, hồi giữa thế kỷ XVIII Thượng tổ Lương tộc từ Tiên Minh vượt sông gồng gánh “bên nồi bên con” sang khởi nghiệp nơi còn đất hoang ở tả ngạn Văn Úc là do loạn lạc, đói kém còn trong những năm 1962-1970 có 7 hộ Lương Đức, 3 hộ Lương Thị bồng bế nhau vượt 400 Km lên lập nghiệp tại vùng biên ải Tây Bắc, nơi “phên dậu Tổ quốc” là do đáp ứng lời kêu gọi đi khai hoang, phát triển kinh tế, văn hóa miền núi của Đảng và cũng có phần do sinh kế. Tổ tiên cũng như lớp con cháu sau này, khi đến đất mới đã không coi mình là dân ngụ cư 寓居 mà sớm hoà đồng chung sức xây dựng nên quê mới.
Học tiền nhân mở mang làng xóm,
Theo Đảng chỉ, gây dựng tương lai.

Nhưng khi cần, chống lại giặc cướp tổ tiên xưa cũng như con cháu sau này đều tạm gác lại chuyện ruộng nương để lên đường giết giặc:



Ngày thất bát: Bên nồi, bên con, thau chua rửa mặn lập ra làng xóm; Gây nghiệp kiệm cần, chăm lo cầy cấy, nuôi dạy cháu con-tiếng nhà trung hậu
Buổi khai hoang: Vượt núi, băng rừng, san đồi, phát rẫy mở nên thôn bản; Dựng đất thịnh an, tòng quân dẹp giặc, giúp trợ dân thôn- xây dòng tiến bộ.
-*-

[1] Nay là một huyện ở phía Nam thành phố Hải Phòng. Diện tích 189,4 km2. Gồm 1 thị trấn (Tiên Lãng - huyện lị), 22 xã (Đại Thắng, Tiên Cường, Tự Cường, Tiên Tiến, Quyết Tiến, Khởi Nghĩa, Tiên Thanh, Cấp Tiến, Kiến Thiết, Đoàn Lập, Bạch Đằng, Quang Phục, Toàn Thắng, Tiên Thắng, Tiên Minh, Bắc Hưng, Nam Hưng, Hùng Thắng, Tây Hưng, Đông Hưng, Tiên Hưng, Vinh Quang). Dân số 155.100 (2003). Địa hình đồng bằng ven biển, đất phù sa bị nhiễm mặn, có rừng ngập mặn ở ngoài đê bao. Sông Văn Úc, Thái Bình chảy qua, có nhiều đầm, hồ. Trồng lúa, cói, thuốc lào. Chăn nuôi gia cầm, tôm, cá. Đánh bắt hải sản. Nghề thủ công dệt chiếu cói, đặc sản thuốc lào. Giao thông: quốc lộ 10, tỉnh lộ 221, 212 chạy qua, đường thủy trên sông Văn Úc, Thái Bình.
[2] Bản của Lương Hoàn chép là Nguyễn Thị Nữ
[3] Phần lai lịch dòng họ, Đệ Nhất Tổ và Tổ các Chi tôi dựa vào bản phiên âm của phụ thân tôi để lại: “Nguyên tiền công quán tại Tiên Lãng huyện, Đăng Lai xã (kim cải Phương Lai) sinh nhất nam, nhất nữ. Sở ngộ gia bần niên cơ, thuỷ tương tử nữ vãng An Lão huyện, Phương Lạp xã trú cư toạ độ hoạt y. Duy hữu Nguyễn, Mai nhị tính. Nguyễn vô tự, nhập ký yên. Hậu sinh nam tử lục nhân, nữ tử tam nhân. Kỳ trưởng Lẫm tảo một vô tự. Thứ Tuấn Nguyễn tộc khất dưỡng, thứ Chiêu thừa tự, thứ Tú tịch cư Mông Tràng Hạ xã, thứ Thiệu, thứ Linh cư gia Phương Lạp xã, lãi bản chi kỳ quý dã. Tái truyền hữu nhất chi di cư Tứ Kỳ huyện, Mỹ Ân xã. Thượng hữu nhất Tổ tại tiền quán Phương Lai xã. Hữu nhất Tổ Phương Lạp xã”. Có đối chiếu với bản Gia phả Lương Hoàn.
[4] Nếu Phạm Đình Trọng 范 廷 重 này là con cháu cụ Phạm Công Quý 范 公 貴 và là cùng đời với Phạm triệu tổ bên mẹ tôi là Phạm Đình Khanh 范 廷 牼 thì Thượng Ngoại tổ của tôi là Lương Công Cảnh 梁公景 đã đầu quân dưới trướng Phạm Đình Trọng. Vì để đánh Nguyễn Hữu Cầu, lịch sử ghi rõ: Phạm Đình Trọng đã mộ quân ở Thanh Hòa, Tứ Kì, Vĩnh Lại (Vĩnh Bảo nay), Thượng Hồng đặt làm 4 cơ.
[5] Bản thân địa danh Cao Mật (高密= Bãi đất cao, rậm rạp, liền kín) và tên dòng sông (文郁 =sông quanh co ven bờ cây cối sum sê, um tùm, rậm rạp) đã chỉ rõ điều đó
[6] Huyện Ân Thi 恩施 thuộc tỉnh Hưng Yên 興安, trước vốn có tên là Đường Hào 唐豪 là quê hương của tướng quân Phạm Ngũ Lão 范五老 (1255 - 1320).
[7] Trước là Tân Minh 新明, đến năm Thuận Đức 1601 vì kiêng tên Lê Kính Tông (1600-1619), húy Duy Tân nên đổi là Tiên Minh 先明, đời Thành Thái (1889-1907) đổi là Tiên Lãng 先朗.
[8] Thời điểm này tôi tính ra bởi việc cụ Phạm Đình Khanh đến có ghi trong Gia phả Phạm tộc. Còn trong Gia phả ngành Lương Hoàn ghi Cụ “Lương quý công húy Thiệu, công lãi Lương Công Nghệ, Lương Thị Ngỗi, chi đệ Ngũ tử..thọ Lục Thập Tứ tuế, tốt ư Minh Mệnh Thập Tứ niên, Quý Tỵ niên, Nhị nguyệt, sơ Bát nhật” tức là mất 08/02/Quý Tỵ 1833 thọ 64 tuổi, vậy cụ sinh năm 1769, lại là con thứ 5. Như vậy thân phụ (Lương Công Nghệ) phải được Thương Tổ sinh ra và lập nghiệp tại đây trước đó trên 20 năm.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!