Thưở nhỏ tôi thấy gia đình và xã hội ít câu nệ việc xem ngày, chọn đất.
Có lẽ do cuộc sống thời đó quá khó khăn. Đồng thời, đây là
lĩnh vực có tính thần bí và chỉ truyền miệng trong dân gian, qua các giang hồ
thuật sĩ nên ít người nắm chắc. Bởi tính mơ hồ và thất truyền ấy nên một thời
rất dài khi tiếp xúc với nền văn minh Phương Tây, khoa học của văn hóa Đông phương
đã bị liệt vào loại “mê tín dị đoan”.
Từ cuối những năm 80 thế kỉ XX trở đi vấn đề này được
phục hồi và ngày càng có xu hướng thịnh hơn, nhất là ở những gia đình, vùng có
kinh tế khá. Sách ta, sách Tầu, thầy cũ, thầy mới rồi các trang Website từ hải
ngoại...tràn lan tạo ra làn sóng tính ngày, chọn giờ, tìm đất...phong phú.
Nhưng xem ra có rất nhiều kiêng kị đến phi lý,
thiếu căn cứ khoa học, gây rắc rối lắm khi bất hòa giữa những người trong cuộc.
Khoa học phổ thông đã minh chứng rằng: các
hành tinh trong hệ mặt trời đều được hình thành từ cùng một đám mây vật chất (gồm bụi và khí) nên các hành tinh đều
quay cùng chiều. Trong đó Mặt trời là
thiên thể trung tâm có vai
trò quyết định việc hình thành và duy trì sự sống trên Trái Đất. Trong khi trái đất quay quanh mặt
trời với chu kì 1 năm thì Mặt trăng
chuyển động quanh nó theo quỹ đạo elip với khoảng cách trung bình 384 nghìn
kilômet, chu kì 27,32 ngày. Hoạt động của Mặt trăng, Mặt trời, Thiên thể khác
có ảnh hưởng quyết định đến sự sống trên Trái đất.
Sự ảnh hưởng đó diễn ra theo các chu kỳ: Ngày-
Đêm, Tuần Trăng, Mùa. Do đó mọi biến đổi của Mặt trời, Mặt trăng và các sao
đều có ảnh hưởng tới sự sống trên trái đất, trong đó có con người. Khi xã hội
càng văn minh thì việc nhận thức và giải thích nó càng dễ dàng hơn. Khoa học đã
dự báo trước nhiều năm những hiện tượng thiên nhiên chính xác đến từng giờ
phút. Nhưng tác động của tự nhiên sẽ tạo nên hậu quả xấu đối với từng người,
từng việc, từng vùng ra sao vẫn còn là dấu hỏi lớn.
Do vậy câu nói Càn khôn dĩ tận thức 乾坤已盡識 chưa hẳn đã đúng, cần phải bổ khuyết nhiều.
Nhiều chuyện từng đọc trong sử sách, văn chương
hoặc bản thân từng gặp thấy có một thực tế là có ngày mọi việc, mọi điều đều
thành công, nhiều điều may mắn tự nhiên tới; có ngày vất vả mà chẳng được việc
gì, còn gặp tai nạn bất ngờ.
Sự linh nghiệm về dự báo của những nhà Tiên
tri, những câu sấm, những câu hát đồng dao vẫn còn là điều bí ẩn. Lý
luận duy vật biện chứng từng giải thích sự kì lạ đó bằng tất nhiên và ngẫu nhiên,
trong ngẫu nhiên có tất nhiên và trong tất nhiên có ngẫu nhiên và chắc chắn
tuân theo một quy luật nhất định.
Theo nguyên lý chung, con người là tiểu vũ trụ và có quan hệ mật thiết với Trời, Đất, Trăng, Sao mà khoa học hiện đại hoặc đã lý giải được một phần hoặc chưa lý giải được. Sự tác động của vũ trụ tới con người tuân theo những quy luật nhất định mà một trong những quy luật đó là nhịp sinh học. Có nhịp ngày đêm, nhịp tháng (liên quan đến âm lịch) nhịp mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông... Những biến đổi đó có tính chất chu kỳ và tuần hoàn (lặp đi lặp lại khá đều đặn). Dựa trên kinh nghiệm của người xưa và những tính toán hiện đại, các nhà Chiêm tinh học cho rằng: từ khi ra đời, cuộc sống của mỗi người diễn ra phù hợp với ba chu kỳ riêng biệt: Chu kỳ thể lực: 23 ngày, chu kỳ tình cảm 28 ngày, chu kỳ trí tuệ 33 ngày. Mỗi chu kỳ gồm hai bán chu kỳ: Bán chu kỳ dương (1/2 số ngày của đầu chu kỳ) được đặc trưng bằng sự tăng cường khả năng lao động, bán chu kỳ âm (1/2 số ngày cuối chu kỳ) thì các hiện tượng đều ngược lại. Ngày trùng với điểm chuyển tiếp từ bán chu kỳ dương sang bán chu kỳ âm là ngày xấu nhất của mỗi chu kỳ. Ðối với chu kỳ tình cảm là ngày vô cớ. Ðối với chu kỳ trí tuệ, đó là ngày đãng trí, khả năng tư duy kém. Ðặc biệt đối với chu kỳ thể lực, đó là ngày thường sảy ra tai nạn lao động. Ðối với hai chu kỳ, số ngày chuyển tiếp trùng nhau chỉ xảy ra một lần trong một năm. Ngày trùng hợp đó của ba chu kỳ là ngày xấu nhất, ngày “Vận hạn” của mỗi người. Nếu biết ngày, tháng, năm sinh của mỗi người, có thể dễ dàng xác định được các chu kỳ, điểm chuyển tiếp và sự trùng hợp điểm chuyển tiếp. Giáo dục và rèn luyện góp phần cải thiên những điều bất cập song không thể vượt qua những quy luật của Tạo hóa.
Người xưa có câu “Linh tại ngã, bất linh tại ngã” 靈在我不靈在我 , “Vô sư vô sách, quỉ thần bất trách” 不知者不罪 nghĩa là linh thiêng, hiệu nghiệm hay không là do ở mình, không thầy, không sách thì quỷ thần cũng không trách phạt được. Nhưng lại có câu: “Chân thành tất linh nghiệm” 誠必靈 và “Hữu cảm tất thông, hữu cầu tất ứng” 有感必通有求必應. Cho nên vấn đề “chọn lành tránh dữ” không hoàn toàn là mê tín mà nó là tín ngưỡng, là tâm linh. Nó là nhu cầu và sẽ còn tồn tại trong nhiều giai tầng và chế độ xã hội!
Nhất là khi điều kiêng kị không ảnh hưởng mâý tới công việc cũng như kinh tế... thì khi tiến hành những việc trọng đại cần tìm được người tốt, lành để hợp tác, cộng sự; ngày tốt, giờ đẹp, đất lành để Phúc chí tâm linh 福至心靈 sao cho mọi việc hanh thông. Tâm lý cầu lành, tránh dữ ai chẳng có. Do đó tốt nhất nên chọn “Cát Nhật”, “Cát Thời” để tiến hành, chọn “Cát Trạch” để xây dương trạch, đặt âm trạch. Nhưng quan trọng hơn là cần biết những “Hung Nhật”, “Hung Trạch” để tránh. Đây không phải là duy tâm mà là ước nguyện cho mọi sự tốt lành.
Nhưng nếu cứ quẩn quanh mãi với việc Cát, Hung, Hợp, Khắc, Xung sẽ rất phiền toái. Việc thành hay bại cốt do ở người chớ có quan hệ gì ngày tốt hay đất xấu. Bởi rằng: Phúc hay Hoạ đâu bởi Ngày; Lịch đặt ra sao cầu được Phúc; Yên hay Nguy chẳng tại Đất, Bụng mọi người cứ vững là Yên. Nhưng lại có câu: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành” nên cũng cần biết ngày xấu, người nặng vía, đất dữ để tránh; ngày đẹp, người mát vía, đất lành để chọn khi dự định thực hiện một việc lớn.
Dù thế nào cũng nên biết rằng: “Cát, Hung” lại phải là ngày, giờ tính theo Can Chi và việc xem tuổi, chọn ngày, tính giờ khá nhiều rối rắm, khó hiểu với chúng dân.
Mỗi sách viết, mỗi thầy hiểu một kiểu và trong
một số bài viết thường chen nhiều từ Hán Việt, khái niệm cổ khó hiểu, khó tra
cứu, kiểm chứng. Nhưng nhu cầu muốn mọi việc hanh thông, may nhiều, rủi ít ngày
càng gia tăng trong xã hội cũng như mỗi gia đình.
Từng học và đã tốt nghiệp Học viện Quân y, nhiều năm làm BT Chi bộ, UVBCH Đảng bộ, phụ trách đơn
vị và trực tiếp làm công tác Kỹ thuật điều tra tội phạm trong CA cấp tỉnh, các em và
con trai là ĐV nên tôi không hề mê tín.
Nhưng
tin vào “Tâm linh” 心靈, lại thấy
nhiều tri thức cổ nhân khi nghiên cứu kĩ có hình bóng của khoa học hiện đại (Âm
dương ~ Nhị phân...) và việc chọn ngày, xem đất chẳng có gì sai nếu
không trở ngại đến công vệc chung nên đã cố công tìm hiểu. Từ thực tế nhiều người,
cả trong gia đình vẫn phải nhờ thầy, cậy
thợ xem, chọn mà đôi khi đó là những thày chỉ xem qua vài sách nên tôi thấy
mình cần phải hiểu, phải biết để tự làm chủ mình bởi 家事何必問外人”Gia sự
hà tất vấn ngoại nhân”.
Tập hợp từ nhiều nguồn tư liệu và với sự hiểu biết của mình cùng những kiểm
nghiệm bởi mấy chục năm làm công tác Kỹ thuật hình sự tôi cố gắng sắp xếp lại,
sơ đồ hoá, bảng biểu hoá, biểu thức hoá để dễ hiểu, tiện tính và tra cứu thuận
lợi hơn. Hoặc đơn giản là nghiền ngẫm lúc rảnh rỗi, hiểu thêm về Triết học cổ, để
tự tin hơn và tham khảo xem những điều Thầy
phán cho mình và gia đình “hay” bởi đâu.
Những chữ Hán 漢字
ghi bên cạnh là để tiện nhớ khi xem Lịch có in loại chữ này.
Muốn làm được việc này, trước hết phải hiểu
biết sơ giản về Lịch pháp, đặc biệt
về Thập Thiên can, Thập nhị Địa chi, phối
hợp Can chi, Lục thập hoa Giáp. Đồng thời có kiến thức về
cách tính Nhị thập bát Tú, Thất diệu
Tinh, Cửu tinh, Lục diệu, 12 Trực kiến cùng các thuyết Âm dương, Ngũ hành, Bát quái,
quan niệm về Hoàng đạo-Hắc đạo, kiến
thức sơ giản về Toán cao cấp, biết sử
dụng máy Vi tính trong công tác văn phòng...
Trong vấn đề xác định, quy đổi thời gian nên nhớ theo quyết định của Hội nghị
quốc tế 1884 họp tại Luân Đôn lấy Kinh tuyến đi qua Greenwich làm múi giờ “số 0” (kinh tuyến Tý-Ngọ) và cứ 150 là một múi giờ thì Việt Nam
ở múi giờ thứ 7, tức là thời điểm kết thúc một ngày vào lúc 24 giờ VN hay 17
giờ UT (giờ quốc tế). Chỉ một giây
sau là 00 giờ: 01 giây theo múi giờ 7, tức 17 giờ: 00 phút: 01 giây (giờ UT của ngày hôm trước), lúc đó tại
Việt Nam chuyển sang một ngày dương lịch mới. Đồng thời bao giờ cũng tồn tại 3
loại giờ là: giờ thực của kinh tuyến trung tâm, giờ thực địa phương và giờ
trung bình, cứ lệch mỗi độ so với KT trung tâm là lệch 4” (VD: Lào Cai ở KT 1040 Đ nên giờ thực tế sẽ sớm hơn Hà Nội
4”). Giữa 2 loại giờ thực của kinh tuyến trung tâm và giờ đồng hồ có một
sai số gọi là thời sai... giáp ranh
giữa hai giờ cổ truyền nếu cộng thêm thời sai có thể chuyển từ giờ cổ truyền
này sang giờ cổ truyền khác. Dùng các tiêu chí cổ học phương Đông trong xem
tuổi, chọn ngày, dự đoán mệnh vận con người mà dùng giờ đồng hồ, ngày DL suy ra
ngày AL và ngày can chi nên sự thiếu chính xác chắc chắn sẽ xảy ra (thời sai là -14” đến +16”). Kinh tuyến
trung tâm và Vĩ tuyến thay đổi có ảnh hưởng đến thời điểm mặt trời mọc (phút, giây) nên khi tham khảo sách Tầu
hoặc sách miền Nam xuất bản trước 1975 cần lưu ý Hà Nội
ở KT 1050 Đ, múi giờ GMT +7:00
chênh với gìơ của Trung Quốc 1 tiếng (Bắc
Kinh thuộc múi giờ GMT +8:00). Nhiều năm ngày Tết Nguyên đán và Tiết khí 2
lịch này khác nhau. Gần nhất, Giao thừa Đinh Hợi 2007 nơi tôi sống đón Tết trước
bên Hà Khẩu 1 ngày, dù chỉ cách nhau 1 làn nước của con sông Nậm Thi. Có sự
khác biệt đến một ngày là một phần do sự chuyển
Tiết khí giữa các múi giờ (Kinh tuyến)
và do bán Chu kỳ Mặt trăng chỉ có 14,75 ngày không tròn 15 ngày như khi làm
lịch đã tính; đồng thời Hà Nội-Bắc Kinh ở những Vĩ tuyến khác xa nhau nên
thời điểm Trăng tròn (ngày Vọng)
không trùng nhau nên Sóc nhật cũng
phải điều chỉnh cho hợp con nước. Sự điều
chỉnh này đã có từ thời Lê, Nguyễn và vài năm mới xẩy ra một lần được quan Khâm
thiên giám đệ trình vào ngày 01 tháng Chạp để Vua ngự chuẩn trong Lễ Ban sóc.
Như vậy đủ biết việc xem ngày là khoa học kinh nghiệm (sciences empiriques) khởi nguồn từ vùng
Hoa Hạ 華夏 bên Tầu 中國 vốn sác xuất chưa tới
100% sang ta khác địa thế núi sông, xa kinh độ, vĩ độ nên càng nhiều sai biệt.
Do đó chỉ nên tham khảo, không quá lệ thuộc vào nó, dù “thầy” có cao tay đến đâu.
Nhưng luôn là một khoa học lý thú, kích thích trí tò mò và nhiều khi mang lại
hiệu quả lớn.
Vừa sưu tầm tư liệu, vừa tự học, tự kiểm
nghiệm những việc của bản thân, gia đình, làng xóm, công việc mà mình đã trải
nghiệm, vừa ghi chép, hệ thống hóa và soạn lại cũng là dịp tự rèn luyện tính
kiên nhẫn và trau dồi thêm những lỗ hổng kiến thức là phương châm cơ bản. Việc
ứng dụng để tính toán chỉ đáp ứng yêu cầu khi cần thiết.
Mai sau,
nhu cầu biết Lịch ta, việc xem ngày, xem tuổi; chọn giờ, tìm đất…sẽ có nhu cầu
mới. Song chắc chắn nếu con cháu tôi khi đọc những điều tôi biên soạn ra đây
vẫn có ích. Đó còn là cách tốt nhất phấn đấu
để “trí thân thanh vân” 致 身 青 雲, chọn lành lánh dữ.
Trước hết là tìm hiểu về lịch, triết học cổ
ứng dụng trong xem tuổi, chọn ngày giờ hay dự đoán mọi sự!
-
Lương Đức Mến, tái soạn và chỉnh lý ngày 06/3/Giáp Thìn
2024-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!