Mấy lần dự Giỗ
Tổ tôi thấy các chú, các anh, các cháu ở quê sử dụng bài khấn có lẽ soạn từ đời
các cụ ngang vai ông Nội tôi mà lại không hiểu nghĩa cổ nên trong xưng hô không
chuẩn, kể thế thứ tiền nhân. Đặc biệt, trong bài Khấn Tế dùng lẫn cả âm Hán Việt và thuần Việt nên
người nghe, nếu có chút hiểu biết thấy rất khó chịu!
Tham khảo các
bài văn Tế, Khấn của các họ lớn, dựa vào bài Khấn bố tôi soạn trước kia và lịch
sử dòng họ, từ năm 1999 tôi soạn bài văn Khấn giỗ Tổ cho phái Lào Cai, hằng năm
có bổ sung, sửa đổi.
Nay chỉnh sửa lại, đưa vào đây để quan viên họ tham khảo, sử dụng (thay ngày tháng năm theo lịch Can Chi cho phù hợp). Khấn rằng:
Kính nghe:
Có thờ có thiêng, có kiêng có lành;
Có Hiếu được đáp đền, có Kính ắt Phật, Thần phù hộ.
Cành rợp bóng, dòng chảy không ngừng
vì gốc vững, nguồn dài; Gia môn khang thái bởi Linh Miếu trường tồn, oai linh
Tiên Tổ.
Uống nước phải nhớ nguồn, hưởng trái
thơm nhớ ơn người trồng; Đó là nếp hiếu nghĩa ngàn xưa, là đạo cương thường vạn
cổ.
Bởi thế cho nên:
Nhân ngày Giỗ Tổ, ngưỡng vọng Tôn
linh; Từ nơi Tổ khai cơ lập nghiệp, Lễ bạc lòng thành, những mong tường tỏ.
Hôm nay: Thứ ….ngày…., tức 19 tháng Hai
năm….…..(âm lịch theo Can Chi), gặp kỳ tưởng nhớ Đức
Tổ chi Hai,
Đứng trước bàn thờ tại gia
đường tín chủ con: Đệ Bát đại Lương Đức gia tộc, Trưởng đệ Nhị
Chi là: Lương Đức Thành, sinh năm 19…, hợp cùng Mẫu thân, bá, thúc, huynh, đệ tử,
tức, tôn, tằng nội ngoại, rể dâu tụ họp tại Gia từ,
Kính thỉnh :
- Chín phương Trời, năm phương Đất,
chư Phật mười phương;
- Ngài Đại tướng quân, Hành khiển,
Hành binh Phán quan chi Thần đương niên năm…..(âm lịch);
- Ngài Bản Cảnh Thành Hoàng, các
Ngài Thổ Địa, Táo Quân, Long Mạch tôn Thần của xứ Phương Hạ;
Cùng là Hoàng Thiên, hậu Thổ, chư vị
tôn Thần.
Con tiếp Kính thỉnh:
Đệ Nhị đại, Tổ đệ Nhị Chi là Lương
Công Tú thụy Đức Long và các Tổ tỉ: Đặng Thị Nhượng, Nguyễn Thị Dụng, Hoàng Thị
Châu, Đặng Thị Chiền;
Kính thỉnh:
Thủy tổ Lương Công Trạch, Tổ tỉ Nguyễn Thị Lã;
Đệ Nhất Đại Tổ Lương Công Nghệ, Tổ Tỉ
Lương Thị Còi, tức Ngỗi;
Đồng kính thỉnh:
- Đệ Tam đại, Tổ phái Nhất đệ Nhị Chi là
Lương Đức Xưng, Tổ tỉ Vũ Thị Đào;
- Đệ Tam đại, Tổ phái Nhị đệ Nhị Chi
là Lương Đức Hanh, Tổ tỉ Đặng Thị Chẻo và
Chưa rõ danh
- Đệ Tam đại, Tổ phái Tam đệ Nhị Chi
là Lương Đức Lân; Đệ Tam đại Lương Đức Mã; Đệ Tam đại Lương Đức Ly; Đệ Tam đại
Lương Đức Phượng
cùng Hương linh Lương tộc Lịch đại tổ
tiên, Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Hiển khảo, Cô, Ry, Tỉ, Muội, Huynh, Đệ và các bậc phụ thờ
theo tiên tổ của Lương tộc.
Cùng các vong linh Tiền chủ, Hậu chủ,
y thảo phụ mộc ở trong vùng.
Giáng lâm trước án nghe con kính
trình:
MỪNG HÔM NAY:
Trời tháng Hai khí sáng, trời xanh,
Đất Phương Hạ rộn vui xóm ngõ;
Ngắm núi Voi sừng sững, tưởng lại cội
xưa, Nhìn sông Úc vỗ bờ, nghĩ về nguồn cũ;
Con cháu chi Hai, Từ mọi phương hướng
về đất Tổ.
Tụ họp tại Gia đường cùng nhau Giỗ họ.
NHỚ THUỶ TỔ XƯA:
Sinh tại Tiên Minh[1]; Mộc Thủy[2] thế phổ.
Nhà 2 con gặp cảnh điêu linh; Nước
“lưỡng chế” cơ đồ nghiêng ngửa.
Xứ Đông lụt lội, bao cảnh tang
thương; Làng xóm xác xơ, đời càng thêm khổ.
Đành một gánh từ bỏ quê hương; Dắt vợ
con tìm nơi dễ thở.
Thấy bên tả sông Văn nước ngập, muỗi
đầy, người vẫn còn thưa; Bèn sang đó đắp bờ thau chua, rửa mặn, phát hoang, cầy
vỡ.
Công sức mồ hôi đã thấu đến trời, Lại
được họ Nguyễn, họ Mai giang tay giúp đỡ.
Xây thành xóm, thành ruộng thành đồng;
Dựng nên nhà, nên chồng, nên vợ.
Hoài cố hương, trở lại Đăng Lai; Tiếp
căn cơ và hương khói Tổ.
Lưu cháu con xây dựng Hạ Hương; Khởi
tổ tiên họ Lương tân thổ.
ĐỨC TỔ TA:
Cha vốn gốc Phương Lai, Mẹ Quan Bồ
cùng lộ.
Tuổi thơ ấu, xa cách chẳng biết
nhau, Thời khôn lớn nên duyên chồng vợ.
Tiếp việc mẹ cha xây dựng Hạ Hương,
Bao công sức, khơi mương, vượt thổ.
Bồi lấp bãi lầy, Dọn quang lăn, cỏ.
Đây Cốc Tràng, Tôn Lĩnh, Kim Côn khi
sương chiều, khi nắng sớm, nghĩa hương thôn ấm lạnh đỡ đần; Kìa Hương Lạp, Mông
Tràng, Tôn Lộc, lúc nắng Hạ, lúc mưa Đông, tình xóm làng răng môi gắn bó.
Việc cấy cày, đã hết dạ chăm lo; Đường
học vấn, còn dày công dạy dỗ.
Thuật xử thế ngoài êm trong ấm, thầy
hay bạn tốt, chọn nhân nghĩa phương châm; Việc tề gia trên thuận dưới hòa, con
thảo cha hiền, dùng hiếu từ quy củ.
Công ơn mở đất, ai cũng kính yêu;
Tâm huyết xây quê, đời càng thấy rõ.
Theo đà tiến triển, cùng dân cũ tô
điểm quê cha; Giữ nếp cổ truyền, nhớ cội nguồn dựng xây đất tổ.
ĐẾN ĐỨC TỔ CHI:
Tính hiền thục, trí học giỏi giang,
chuyện họ chăm lo, việc làng gắng cố.
Được vợ đảm nên rộng ruộng vườn, lắm
gia nhân; Trời thử thách để chậm đường con,
Nghe họ hàng nạp thêm 3 vợ.
Sinh được 6 nam, cưới gả quanh vùng
cháu con ngày càng đông đàn dài lũ.
Người mất tháng Năm giữa lúc thu
mùa; Nhớ Tổ tỉ ra đi làm ngày Giỗ Tổ.
HẬU DUỆ TRUYỀN :
Noi gương Tổ: ngày thất bát hai vợ
chồng- Bên nồi, bên con, thau chua rửa mặn lập ra làng xóm, gây nghiệp kiệm cần;
Học tiền nhân: Buổi khai hoang vài chi phái- Vượt núi, băng rừng, san đồi, vỡ
ruộng dựng nên thôn phố, xây dòng tiến bộ.
Lời xưa, ý nay bồi đắp: đạo Thánh hiền
cháu con ghi nhớ noi theo; Đất cũ, làng mới xum vầy: tình cốt nhục khắp nơi
thân thương gắn bó.
Đức khai cơ cao tựa núi Voi; Ân
dưỡng dục dài hơn sông Úc.
Mênh mông bể cả, tổ ấm tài bồi; Thăm
thẳm non cao, tôn công tế độ.
Để có ngày phú quý, bao công sức đổ
xuống đất này; Vì sự nghiệp mai ngày, biết bao lần vượt khó.
Quê hương đổi mới nhờ địa lợi mà bát
ngát màu xanh; Nội lực phát huy lấy nhân hoà để vượt qua gian khổ.
ĐÚNG LÀ:
Tu nhân, tích đức, Phật đền
cho; Khổ tứ, lao tâm, Trời chẳng phụ.
Trải lúc cơ trời biến cải, dù buổi
thái bình hay cơn binh lửa, sức âm phò quả đã vô cùng; Qua tuần cuộc thế đổi
thay, dù nơi đất khách hoặc chốn quê nhà, ơn mặc trợ mỗi ngày mỗi tỏ.
Đất lành người đảm, đời này sang đời
nọ, thụ hưởng hồng ân; Nhân tốt quả
xinh, lớp trước tiếp lớp sau, đượm nhuần phúc thọ.
NAY GẶP BUỔI:
Kinh tế thị trường, Giao lưu mở cửa.
Dẫu đã hướng đi lên; Còn muôn điều
thách đố.
Sao cho kịp bước canh tân, Để
khỏi mang danh bảo thủ.
Học ông cha: mở óc suy tư,
Cùng dòng họ: bền gan gắng cố.
Khắp tứ phương: Nam, Bắc, ngược,
xuôi, Dù bách nghệ: sĩ, nông, công, cố.
Đường kinh doanh đã quyết là thành,
Nghiệp khoa cử đã thi là đỗ.
BỞI THẾ CHÁU CON NAY:
Tu sửa Gia đường; Chỉnh trang Phần mộ.
Nhớ người góp công sửa chỗ đi về;
Ghi người công đức sửa爲 nơi thờ tự.
Mộ phần tu chỉnh, nghìn thu cựu tích
tô bồi; Tự sở phong quang, sáu Phái cơ ngơi minh lộ.
Sưu tầm tài liệu, thi văn tuyển trạch,
phụ lục dồi dào; Bổ túc di dung, thế thứ phân minh, Phái Chi đầy đủ.
HÔM NAY :
Sát cánh bên nhau, Trước bàn thờ Tổ.
Sắm hương hoa, một lễ chân thành; Tưởng
công đức muôn phần ngưỡng mộ.
Nghe Chúc văn, lưu công đức muôn đời; Dõi sơ đồ, rõ quế hòe trăm nụ.
Cúi
nguyện nghĩ: Vầng nhật nguyệt
sáng rạng mười phương; Đức Tổ tông lưu danh muôn thuở.
Ngẩng cao trông: Phúc ấm nối đời, “Tế
thần, thần tại'” giáng nơi Từ Đường; Cháu con thờ phụng, “Xuân kị Thu thường” đều
kỳ cúng giỗ.
Thắp nén hương nghi ngút tại Gia đường,
Đặt cành hoa ngạt ngào bên mộ Tổ.
Tấm lòng tôn kính, lễ bạc tiến
nghinh; Văn tế nôm na, tấc thành biểu lộ.
Tưởng nhớ ân sâu Đấng Anh Linh, Tâm
nặng nghĩa dầy Tiên Liệt Tổ.
Nguyện Hiếu, Trung, vì Nước vì Dân,
Tròn Tình, Nghĩa với Đời, với Họ.
Mang Chính Tâm dạy cho con cháu, lấy
Nhân Tín làm điều xử sự.
Người ở quê giữ phần hương khói chăm
sóc Gia đường, tạo tôn phần mộ.
Kẻ đi xa khơi dòng ôn cố, dốc tâm dựng
cơ đồ, rạng danh đất cũ.
CÚI XIN:
Lương tộc Lịch đại Tổ tiên từ cõi
linh thiêng, Ân Đức dẫn đường giúp con cháu ngày thêm tiến bộ.
Để mọi người đạt thành may mắn; Cho
toàn gia Khang Ninh Phúc Thọ.
Làng xóm mạnh giầu, Quốc cường, dân
phú.
Khắp ngược xuôi, Hạnh phúc Yên Vui,
dòng Lương tộc mãi mãi sáng danh; Đều trai gái, công đức ngàn trùng, giữ nếp
gia tiên, khói hương muôn thuở.
Lòng thành kính bái, xin được chứng
minh; Ước vọng dâng lên, kính xin tế độ.
Cúi xin Tiên Tổ chứng minh, phù hộ
[1] Tức Tiên Lãng, nơi khởi phát dòng họ Lương
gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng
[2] Bộ Mộc 木 ghép với chữ Thủy 水 viết dưới dạng bộ 氵thành ra chữ Lương 梁, chỉ tên dòng họ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!