[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


04 tháng 1 2012

Bàn về dòng họ

Hôm kia GsTs Lương Phương Hậu, Phó Trưởng Ban Liên lạc họ Lương Việt Nam, Chủ biên cuốn “HỌ LƯƠNG VIỆT NAM, TRUYỀN THỐNG VÀ ĐƯƠNG ĐẠI” có gửi thư cho tôi gợi ý, trao đổi và yêu cầu cung cấp một số chi tiết. Sau đây là thư trả lời của tôi.  
Sinh thời, phụ thân tôi từng kể: “Dòng họ ta vốn con cháu Cụ Thượng Lương Đắc Bằng từ Thanh Hóa ra Tiên Lãng. Nhưng vì sợ trả thù nên chỉ truyền miệng mà không ghi chép lại!”. Còn từ Tiên Lãng sang An Lão đã được chép trong Gia phả song chỉ chép từ Cụ sang An Lão còn ngược lên thì không chép.
Tôi đã cố công khảo cứu song kết quả vẫn chưa đạt như ý. Những tư liệu tôi viết, phân tích về cội nguồn dòng họ dưới đây đều lấy từ cuốn "GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ 30 HỌ LƯƠNG"  do Lương Phương Hậu và Hoàng Đình Khảm sưu tầm, biên soạn vào tháng 4 năm 2011 mà bác Khảm đã gửi cho.
1. Về nguồn gốc Chiết Giang: là dựa vào Gia phả Lương Cao Hương và Lương Hội Triều. Theo đó, tương truyền, vào thế kỷ thứ 14, khi người Mông Cổ (元朝, 1271-1368) diệt nhà Tống (宋朝, 960-1279), cai trị Trung Quốc (tương ứng giai đoạn đầu nhà Trần của Đại Việt[1]), một số quan lại nhà Tống và con cháu họ chạy sang Việt Nam, trong số đó có anh em nhà họ Lương[2] ở tỉnh Chiết Giang[3] 浙江 nam dusang Đại Việt sinh sống, lập nghiệp. Điều này phù hợp với truyền ngôn đã chép trong Gia phả của nhiều chi phái; đúng với tấm biển ghi trong đền thờ Trạng nguyên Lương Thế Vinh ở làng Cao Hương: “Bản chi bách thế tương truyền văn phái Chiết Giang lai”[4] dịch nghĩa: Tương truyền chi họ ta đến từ văn phái tỉnh Chiết Giang
Đúng chỉ "tương truyền" thôi, và đã bách thế rồi!
2. Về tổ tiên cụ Lương Đắc Bằng:
Theo Phổ ký họ Lương xã Thuận An, tổng Hành Thiện, phủ Xuân trường, tỉnh Nam Định  thì: Thỉ tổ Lương Thế Nghệ - Lương Thế Triệu - Lương Thế Vinh - Trinh Túc tự Thế Cốc và Thế Khôi tự Chiêu Trưng - Con Chiêu Trưng là Thế Khải khởi dòng Lương Hội Triều - Đắc Bằng.  Như thế Lương Đắc Bằng (đời thứ 6) là đích tôn của Đô đốc Chiêu Trưng.
Trong Họ Lương Hội triều Bổn đường gia phổ thì: Thỉ tổ khảo: Hiệu: Mộ đô phủ quân - Lương Đại Đồng - Lương Nhữ Hốt - Lương Thế Vĩnh – Lương Tiệm Giác - Lương Danh Luật - Lương Tông Huệ - Lương Hay - Lương Đắc Bằng. Theo đó ông nội Lương Đắc Bằng (đời thứ 9) lại là Lương Tông Huệ.
Còn theo Giới thiệu sơ lược về họ Lương làng Luật Ngoại (Hành Thiện, Xuân Trường, Nam Định) thì thế thứ là:  Lương Văn Trường - Lương Phong Lộc – Lương Thế Vinh và người con thứ hai của Thái tổ là Lương Phong Phú có con cháu là: Lương Phong Thái – Lương Dung – Lương Đắc Bằng.  Như thế ông nội Lương Đắc Bằng (đời thứ 5) lại là Lương Phong Thái.
Đa phần các tài liệu tôi tìm thấy đều ghi cha Lương Đắc Bằng là Giải nguyên Lương Hay như Họ Lương Hội triều Bổn đường gia phổ. Do vậy tôi nghiêng theo hướng này.
3. V 2 dòng h Lương (Cao Hương - Hội Triều):
(1) Theo “Phổ ký họ Lương xã Thuận An, tổng Hành Thiện, phủ Xuân trường, tỉnh Nam Định” do cụ Lương Hữu Văn soạn,  Lương Ngọc Châu  sao, bổ sung  năm Quý Mùi 1943 thì: Thỉ tổ Lương Thế Nghệ -…- Lương Thế Vinh là đời thứ Ba, tiếp: Trinh Túc tự Thế Cốc và Thế Khôi tự Chiêu Trưng - Con Chiêu Trưng là Thế Khải khởi dòng Lương Hội Triều - Đắc Bằng (cháu của Hoan châu Đô đốc Chiêu Trưng) - Hữu Khánh - Thế Thống - Thế Nghiệp thiên cư vào xã Màng Lãng, huyện Nam Chân và  Thế Chung di cư vào xã Thuận An, huyện Võ Tiên, phủ Kiến Xương sinh 5 trai (Không biết huý hiệu).
(2). Trong “HỌ LƯƠNG HỘI TRIỀU Bổn đường gia phổ” do Đệ tam phái, Thứ chi soạn tháng chín năm Quý Tỵ 1893 thì thế thứ là: Thỉ tổ khảo: Hiệu: Mộ đô phủ quân - Lương Đại Đồng - Lương Nhữ Hốt - Lương Thế Vĩnh – Lương Tiệm Giác - Lương Danh Luật - Lương Tông Huệ - Lương Hay - Lương Đắc Bằng - Lương Hữu Khánh - Lương Hữu Tiến,  Lương Thế Nho và Lương Khiêm Hanh - Lương Văn Nham, Lương Hữu Bổn, Lương Giao Thái - Lương Hữu Vỹ, Lương Hữu Trí, Lương Hữu Lại, Lương Hữu Đệ, Lương Hằng, Lương Toại, Lương Tuy, Lương Thể[5]
(3). “Sơ đồ Phả hệ họ Lương Phủ ở Hội Triều” (đến năm 2000 có 24 đời) trong Khảo luận  TÌM VỀ  CỘI  NGUỒN HỌ  LƯỜNG TAM CHI LÀNG HỘI TRIỀU của ông Hoàng Đình Khảm đã chép và lập sơ đồ đến đời thứ 13.
(4) Cuốn "GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ 30 HỌ LƯƠNG" tại mục 16 Giới thiệu sơ lược về họ Lương làng Luật Ngoại (Hành Thiện, Xuân Trường, Nam Định) thì thế thứ là:  Lương Văn Trường - Lương Phong Lộc – Lương Thế Vinh và người con thứ hai của Thái tổ là Lương Phong Phú có con cháu là: Lương Phong Thái – Lương Dung – Lương Đắc Bằng.
Như vậy tiên tổ của Mộ đô phủ quân, Lương Thế Nghệ (Ngại), Lương Văn Trường là ai thì chưa tìm thấy tài liệu nào đề cập đủ để kê cứu ngược lên được. Do vậy chưa thể xác định được người từ Chiết Giang sang lánh nạn tại Hội Triều là ai, từ năm nào và vì sao lại chọn đất này mà không phải nơi khác? Song giữa các tài liệu có sự không nhất quán về:
2 dòng và mối quan hệ thế thứ giữa Trạng nguyên Lương Thế Vinh và Bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Cụ thể:
- Theo (1) thì cụ Bảng nhãn là chắt cụ Trạng: Thế Vinh - Thế Khôi - Thế Khải - Đắc Bằng và Đắc Bằng thuộc đời thứ 6.
- Theo (2) thì Đắc Bằng ở vào đời thứ 9: Danh Luật - Tông Huệ - Hay - Đắc Bằng, không nói gì đến Cụ Trạng.
- Theo (3) thì Lương Thế Vinh và Lương Đắc Bằng thuộc hai dòng khác nhau, tuy cùng gốc Chiết Giang bên TQ nhưng: cụ Trạng có Thủy tổ ở Cao Hương, còn Thủy tổ cụ Bảng nhãn ở Hội Triều.
-  Theo (4) thì Lương Thế Vinh và Lương Đắc Bằng thuộc hai dòng khác nhau nhưng cùng chung một Thái tổ tại Việt Nam là Lương Văn Trường và Bảng nhãn là cháu gọi Cụ Trạng là Ông bác[6].
4. Về hậu duệ cụ Bảng nhãn (điều tôi quan tâm nhất bởi theo truyền ngôn thì dòng họ tôi là con cháu của Cụ):
Khi Bảng nhãn Lương Đắc Bằng mất thì một nàng hầu (媵妾, dắng thiếp”) của ông mới có thai ba tháng. Sau này sinh một nam, theo lời dặn đặt tên là Lương Hữu Khánh (梁有慶, 1517 – 1590).
- (1) chép Cụ chỉ có 1 cháu Nội (Thế Thống) và 2 chắt Nội. Hai chắt của Cụ đều rời khỏi bản quán (?)
- (2) chép Cụ có 3 cháu Nội (Lương Hữu Tiến,  Lương Thế Nho, Lương Khiêm Hanh); 3 chắt nội (Lương Văn Nham, Lương Hữu Bổn, Lương Giao Thái); 8 chút (Lương Hữu Vỹ, Lương Hữu Trí, Lương Hữu Lại, Lương Hữu Đệ, Lương Hằng, Lương Toại, Lương Tuy, Lương Thể).
- (3) tương tự (2) tuy có nhầm lẫn ghép “Lương Thế Nho sinh một trai là Lương Đệ còn theo (2) và Sơ đồ (3) thì rõ thì thứ tự phải là: Nho - Bản - Đệ…
Đáng tiếc, trong các tư liệu trên không thấy chép việc có con cháu cụ Bảng nhãn sang xứ Đông nhờ cậy Trạng Trình như Gia phả họ Lương Tiên Lãng chép!
5. Về nguồn gốc họ Lương Tiên Lãng:
Gia phả họ Lương Lao Chữ ghi rằng: theo truyền ngôn của các cụ trong họ: Thời Lê – Mạc tranh quyền, con cháu họ Lương Thanh Hoá (Tổ thượng Lương Đắc Cam) đã ra gặp học trò cụ Lương Đắc Bằng là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Vĩnh Lại[7] xứ Đông. Trạng Trình đã đưa con cháu Lương Đắc Bằng về lập nghiệp tại thôn Chử Khê (nay thuộc xã Hùng Thắng) và đến nay (2011) đã được 18 đời (mục 28).
Nhưng đúng như nhận xét của Gs Lương Phương hậu: “cụ Bằng chỉ có 1 con là Lương Hữu Khánh và Hữu Khánh ra đời sau khi cụ Bằng mất 6 tháng. Thế thì người mà cụ Bằng gửi Trạng Trình, không phải là con cháu của mình, mà có rất nhiều lý do để suy rằng rất có thể là  cháu nội cụ Trạng Lương Thế Vinh. Tôi và Bác Khảm cho rằng, nhiều khả năng, họ Lương Đức chính là hậu duệ của Trạng Nguyên Lương Thế Vinh, con cháu của Lương Thế Hộc (Hạo?)”.
Đồng thời trong cả 3 tư liệu từ họ Lương Thanh Hóa mà tôi từng được tiếp cận đều không thấy chép cụ Bảng nhãn có người con, cháu, chắt nào tên là Lương Đắc Cam và không chỗ nào nhắc tới việc ra xứ Đông, chỉ nói chuyện lên Bắc Giang. Vậy: cụ Lương Đắc Cam quan hệ với cụ Lương Đắc Bằng thế nào và sang Tiên Lãng khi nào? Vẫn là một ẩn số!
Chắc thấy cụ Cam đệm là “Đắc” nên các Cụ đời sau suy ra thế chăng? Do vậy đây là một tồn nghi. Theo ngu ý của tôi:
1. Từ  Hoằng Hóa ra Tiên Lãng ngày nay gần 190 km tới Vĩnh Bảo, tiếp hơn chục cây nữa mới sang đến Tiên Lãng. Ngày đó đường lớn (Quốc Lộ 1, Quốc Lộ 2, Quốc lộ 10, Tỉnh lộ 17A, Tỉnh lộ 354) chưa có; các cây cầu qua sông, qua lạch (Tào, Cừ, Tống Giang, Ghềnh, Vóa, Yên, Lim, Khuất, Họ, Mái, Lê, Dáng, Tân Đệ, Năm, Nghìn, Hàn) chưa có hoặc nếu có chắc là nhỏ. Vậy là việc đi lại rất khó khăn, lại phải lẩn trốn nên cần vài ngày đi bộ và trẻ nhỏ khó tự vượt qua.
2. Cụ Trạng Trình năm 1585 đã mất nên hậu duệ cụ Bảng nhãn phải ra trước đó vài năm, có nghĩa người này phải sinh muộn nhất là 1565. Như vậy chỉ ít hơn con Cụ Bảng Nhãn vài tuổi, vô lý!  Nhớ rằng Cụ Trạng cũng lo khi “vật đổi sao dời” nên đã di chúc cho con cháu bí mật chuyển đến Ninh Bình tránh bị truy diệt khi nhà Mạc đổ đã đổi từ họ Nguyễn ra họ Giang (nhớ con sông Tuyết Giang quê hương) nên cũng không đủ khả năng và dám công khai cho người giúp đưa Lương Đắc Cam từ Cổ Am, Vĩnh Lại (Vĩnh Bảo) sang Tân Minh (Tiên Lãng) được. Có thể cụ Khiêm Hanh khi đó đương chức Lễ khoa cấp sự trung trực tiếp đưa con khi đó mới mấy tuổi ra Vĩnh Lại gửi gắm thầy mình? Hay đó là một người con của một nàng hầu nào của 1 trong 3 người con trai của Lương Hữu Khánh (梁有慶,1517 – 1590)? Hoặc con (“rơi”) của chính Danh thần Lương Khiêm Hanh?...
3. Trong thời Nam Bắc triều (南北朝, 1533-1592) từ năm 1555, nhà Mạc đã nhiều lần cất quân đánh vào bản doanh của nhà Lê ở Thanh Hoa (Thanh Hóa nay) làm dân Thanh Hóa nhiều phen chạy tứ toán. Trong đó đáng kể là các trận tấn công do Mạc Kính Điển (莫敬典, ? - 1580) cầm quân là vào: tháng 7 năm 1557, tháng 8 năm 1570, tháng 8 năm 1573, tháng 9 năm 1577, tháng 8 năm 1579 và tháng 8 năm 1583. Trong đó trận tháng 8/1573 đánh cả vào dinh Yên Trường. Như vậy nhiều khả năng hậu duệ cụ Đắc Bằng ra Bắc là vào khoảng 1583 khi đó Lương Khiêm Hanh đã 20 tuổi (sinh năm 1563) và chắc đã có con! Đến nay đã được hơn 400 năm, khoảng 18 đời là hợp lý!
6. Về nguồn gốc họ Lương Đức nhà tôi:
Tương truyền Tổ là hậu duệ của Bảng nhãn Thượng thư Lương Đắc Bằng, sinh 1 nam, 1 nữ. Thượng Tổ là Lương Công Trạch 上祖梁公宅 vốn người Đăng Lai 登來, Tiên Minh 先明, Hải Dương 海洋 (sau cải là Phương Lai 芳來, nay thuộc xã Cấp Tiến, Tiên Lãng, Hải Phòng).
 Gặp năm đói kém 家貧年奇[8] ,Thượng Tổ cùng với vợ (là Nguyễn Thị Lã[9]) đem theo con gái “bên nồi, bên con” gồng gánh sang ở nhờ, làm thuê cho các gia đình họ Nguyễn, họ Mai vốn đã lập nghiệp ở Hương Hạ, Tổng Cao Mật (Chiến Thắng, An Lão ngày nay). Họ Nguyễn vô tự, Cụ nhận lời ủy thác , để con trai (Nghệ) ở lại khai cơ tại đây và sinh ra dòng họ Lương ngày càng đông. Người con của cụ Lương Công Trạch là Lương Công Nghệ 梁公羿 được hậu duệ suy tôn là Đệ Nhất đại Tổ dòng họ Lương ở Cao Mật (Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng nay). Cụ Lương Công Nghệ 第一代祖梁公羿 sinh 6 trai (Lẫm, Tuấn, Chiêu, Tú, Thiệu, Linh) và 3 gái. Vì cụ Lẫm mất sớm nên đến nay chỉ còn 5 Chi.
7. Về thế thứ dòng họ:
Nhà tôi thuộc chi thứ Ba. Thế thứ như sau: 1. Lương Công Nghệ- 2. Lương Công Tú- 3. Lương Đức Hanh- 4. Lương Đức Trinh – 5. Lương Đức Trính- 6. Lương Đức Thân- 7. Lương Đức Mến – 8.Lương Đức Hải Thương.
Như vậy cha tôi thuộc Đời thứ 6 là tính từ Cụ Tổ sinh ra và lập nghiệp ở nơi mà ngày nay là xã Chiến Thắng, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng và 4 ngành mang họ Lương Đức từ đời thứ Ba trở đi[10].
Tuy gia phả chép dòng họ Lương ở Chiến Thắng nay là xuất từ họ Lương bên Tiên Lãng ở làng Lao Chử 牢渚 thuc tổng Dương Áo 陽襖 (nay là xã Hùng Thắng) của Cụ Lương Đắc Cam nhưng từ Cụ Cam đến cụ Lương Công Trạch chưa khảo cứu được cụ thể nên không tính được thân phụ tôi thuộc đời thứ mấy tính từ Cụ Cam.
Từ những năm 1960 đã có nhiều gia đình họ Lương gốc Tiên Lãng đi khai hoang hoặc được điều lên công tác rồi lập nghiệp ở Lào Cai. Nhưng người tôi biết có: anh em ông Lương Hồng Cẩm ở Cốc Tủm (Phong Niên, Bảo Thắng), anh em ông Lương Văn Ngạnh ở Làng Mạ (Trì Quang, Bảo Thắng) và anh em ông Lương Văn Hoản ở Bảo Nhai (Bắc Hà). Những hộ này tuy cùng Tổ Thượng ở Lao Chữ (nay là Hùng Thắng) hay Tổ ở Đăng Lai (nay là Cấp Tiến) huyện Tiên Lãng nhưng không thuộc dòng Lương Đức và chưa chắp nối được Gia phả để rõ thế thứ nên tuy có liên hệ song tôi không chép vào các phần viết về họ Lương Đức nhà tôi. Sinh thời, phụ thân tôi từng làm lễ nhận họ và tiến hành việc giỗ Tổ chung nhưng các cụ chưa có điều kiện làm rõ mối quan hệ ra sao.



[1] Là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lý. Nó ra đời năm 1054, khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt. Nó tồn tại không liên tục bởi triều Hồ (1400-1407). Sau 10 năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa chống Minh của Lê Lợi toàn thắng, Bắc Bình vương lên ngôi (1428), lấy lại tên nước là Ðại Việt và lãnh thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế. Quốc hiệu Ðại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời Tây Sơn (1788-1802).
[2] Không biết anh em họ có liên quan đến các danh nhân nhà Tống có tên trong chính sử như: Nữ tướng kháng Kim Lương Hồng Ngọc (梁红玉, 1102-1135, ở vùng Sở Châu, Hoài An, Giang Tô 江苏淮安市楚州区 ngày nay); cha con Trạng nguyên 父子状元 Lương Hạo (梁灏, 963-1004), Lương Cố (梁固, 985 – 1017, ở vùng Đông Bình, Sơn Đông 山东东平 ngày nay) hay không? 
[3] Chiết Giang là một tỉnh ven biển phía đông của Trung Quốc. Tên gọi Chiết Giang (gọi tắt là “Chiết” ) lấy theo tên cũ của con sông Tiền Đường chảy qua  tỉnh lị Hàng Châu. Về địa giới: giáp giới với tỉnh Giang Tô và thành phố Thượng Hải về phía bắc, An Huy và Giang Tây về phía tây và Phúc Kiến về phía nam, phía đông giáp Biển Đông Trung Quốc. Những cư dân nơi này thời cổ được gọi chung là người Việt, như là Đông Việt hay là Âu Việt. Chiết Giang thuộc quyền kiểm soát của Trung Hoa từ thời nhà Tần (秦朝, 221 tCn-206 tCn).
[4] Tôi tạm phỏng đoán là: 本支百世將传文派浙江來.
[5] Gia phả còn chép tiếp đến đời 15 nhưng không thuộc phạm vi tìm hiểu nên tôi không chú ý.
[6] Điều này có vẻ phù hợp với  câu đối về dòng họ đặt tại  nhà thờ Lương Thế Vinh :
    Trạng nguyên tổ, bảng nhãn tôn,  Lương tộc danh đằng lưỡng quốc,
 Đô đốc tiền, thượng thư hậu, quốc triều vị liệt tam công.
[7] Chính là huyện Vĩnh Bảo, một huyện thuộc thành phố Hải Phòng giáp với tỉnh Thái Bình. Nguyên xưa là đất Đồng Lị 同利. Thời thuộc Minh là huyện Đồng Lợi 同利縣 thuộc châu Hạ Hồng. Vì kiêng húy tên Lê Thái Tổ nên đầu đời Lê đổi là Đồng Lại 同賴. Năm 1469 Lê Thánh Tông cho đổi thành huyện Vĩnh Lại 永賴縣 đặt thuộc phủ Hạ Hồng. Năm 1838, Minh Mạng cắt 3 tổng (Thượng Am, Đông Am và Ngải Am) của Vĩnh Lại cùng với 5 tổng (An Bồ, Bắc Tạ, Đông Tạ, Viên Lang, Hu Trì) thuộc Tứ Kỳ lập huyện mới Vĩnh Bảo 永寶縣.
Như vậy Vĩnh Bảo khi đó có 8 tổng gồm 67 xã, thôn. Trong đó xã Cổ Am  古庵 (quê Trạng Trình) cùng với 6 xã khác nằm trong tổng Đông Am 東庵.
[8] Khoảng 1740-1750 vào thời Lê Hiển Tông-Trịnh Doanh 黎顯宗 - 鄭楹. Mốc này do tôi tính và thấy có lí vì  dựa vào các dữ liệu sau:
- Trong Lược dịch Gia phả ghi tóm tắt: “Vào năm đói kém Tổ (chỉ Lương Công Trạch) đưa 2 con sang Cao Mật vào trọ nhà họ Nguyễn”.
- Sử cũ chép: “Năm 1740-1741 trấn Hải Dương (bao gồm cả Hải phòng ngày nay) người chết đói ngổn ngang, không còn đến phần mười”. Dân chúng phải phiêu tán đi các nơi. Cuộc khảo sát 11/1741 cho thấy có 1/3 số làng xã Bắc Bộ phiêu tán, khảo sát năm 1786 cũng cho kết quả tương tự.
- Gia phả Lương Hoàn (bản phiên âm) chép, tôi lược dịch là: “Đệ Nhị đại Lương Công Thiệu mất ngày 08 tháng 2 năm Minh Mệnh thứ 14 Quý Tị , thọ 64 tuổi”. Theo dương lịch đó là năm 1833 tính ra cụ sinh năm 1769. Cụ là con trai thứ 5 của Cụ Tổ Lương Công Nghệ, sinh ra trên đất Cao Mật nên có thể dự đoán Cụ Tổ sinh khoảng 1730 mà  được Thượng tổ đưa sang bằng cách « bên nồi bên con », tức là còn nhỏ.
- Họ mẹ tôi (ở Cốc Tràng, cùng xã Chiến Thắng) đã tìm được Gia phả gốc. Theo đó Đệ Nhất đại Tổ Phạm Đình Khanh đến Cốc Tràng, Cao Mật năm 1716 (mất ngày 09/Giêng/1740). Nay Trưởng tộc ở đời thứ 13.
- Hiện Trưởng tộc đời thứ 8 (Lương Đức Nghiễn, 1930-2009) đã có cháu gọi bằng ông.
[9] Bản của Lương Hoàn chép là Nguyễn Thị Nữ
[10] Riêng con cháu cụ Thiệu (ngành tư) đổi thành Lương Hoàn. Lý do đổi chữ lót  chưa khảo cứu được.

1 nhận xét:

  1. hoangdinhkham@gmail.com
    Thân gửi anh Lương Đức Mến
    Nhân dịp năm mới 2012, Hoàng Đình Khảm gửi đến anh lời chúc một năm mới tốt lành, chúc gia đình an khang thịnh vương.
    Thưa anh Mến, tôi đã đọc bài viết ngày 6/1/2012 của anh, có nhiều ý kiến muốn trao đổi, nay chỉ có thể tóm tắt như sau:
    1, Tôi đã trực tiếp đọc câu:"Bản chi bách thế tương truyền văn phái Chiết Giang lai" ở đền thờ quan trạng vào cuối tháng 8/2011.
    2, Tôi biết ông tổ họ Lương phủ Hội Triều là Mô Độ phủ quân vào Thanh Hóa cư ngụ ở làng Ngò nay thuộc huyện Hậu Lộc, đế đời thứ tư là ông Lương Nhữ Hốt mới đến Hội Triều vào năm 1408.
    3, Trước tôi không dám tin rằng con cháu cụ Lương Đắc Bằng lại lưu lạc ra Tiên Lãng. nhưng nay qua một số tư liệu thì tôi tin đó là một sự thật hiển nhiên.
    Hy vọng khi có điều kiện sẽ trao đổi chi tiết với anh.
    sau hết kính chúc anh sức khỏe.
    Hoàng Đình Khảm.

    Trả lờiXóa

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!