[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


31 tháng 7 2011

45 NĂM HỌ LƯƠNG ĐỨC TRÊN ĐẤT LÀO CAI

Theo truyền ngôn thì Thượng tổ vốn là con cháu của Cụ Lương Đắc Bằng, từ Thanh Hoá ra lập nghiệp ở Tiên Lãng rồi từ đó sang An Lão và từ đây lại đi nhiều nơi khác, trong đó có dòng Lào Cai.

Cụ Tổ dòng họ Lương Chiến Thắng từ xã Đăng Lai tổng Kênh Thanh huyện Tiên Minh, tỉnh Hải Dương (nay là xã Cấp Tiến, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng) sang cư ngụ tại tổng Cao Mật, huyện An Lão (nay là xã Chiến Thắng huyện An Lão) khoảng giữa thế kỷ 18. Gia phả còn ghi: “ngoài chi sang Cao Mật con cháu là Lương Đức...Lương Hoàn..., còn có 01 chi chuyển sang Mỹ Ân, Tứ Kỳ, Hải Dương, 01 chi lên Bắc Giang và 01 chi ở lại Phương Lai”.
Những người thuộc dòng Lương Đức (ngành Trưởng và ngành Ba) lên Lào Cai trong những năm 1962-1971 đều khởi nguồn từ Chiến Thắng, An Lão. Trong đó, sống tập trung hoặc xuất phát từ An Phong, xã Phong Niên, huyện Bảo Thắng là đông nhất. Từ 6 hộ Nam đời thứ 6, 7 gốc ở quê lên những năm đó, đến Rằm tháng Giêng Tân Mão 2011, riêng dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng đã có 22 hộ Nam, 22 hộ Nữ thế hệ thứ Hai, 17 hộ thế hệ thứ Ba và ngày một đông, cư ngụ ở Phong Niên, Xuân Quang, Trì Quang, Phố Lu (thuộc huyện Bảo Thắng) và thành phố Lào Cai. Một số anh, chị, các cháu đi các tỉnh: Hà Nội, Đắc Lắc, Lâm Đồng sinh sống.
Việc giỗ vọng Tổ vào ngày Rằm tháng Giêng tại An Phong do thân phụ tôi là Lương Đức Thân khởi xướng từ năm 1993 và nay tôi duy trì.
Từ những năm 1960, trên Lào Cai có nhiều gia đình họ Lương gốc Tiên Lãng, An Lão lên ở Cốc Tủm (Phong Niên, Bảo Thắng), Làng Mạ (Trì Quang, Bảo Thắng) và Bảo Nhai (Bắc Hà) tuy cùng Viễn tổ họ Lương ở Đăng Lai (nay là Cấp Tiến), Tiên Lãng nhưng không phải là Lương Đức và chưa chắp nối được Gia phả để rõ thế thứ nên tuy có liên hệ song không chép vào đây.
Đánh giá về dòng Lương Đức từ quê lên An Phong:
Trong số những công dân khai điền, mở đất ở An Phong ban đầu (2/1964) và trụ lại vượt khó lập xóm, dựng thôn không phải chỉ có người Lương tộc mà còn những gia đình họ Đặng, họ Bùi, họ Phạm, họ Đào....Sự quyết tâm, bền gan, hiến kế, góp công, góp của và máu xương của mọi người nên đây đã phấn đấu thành một trong những thôn khá của xã. Trong sự chuyển mình ấy, đóng góp khai đất, hình thành và củng cố phát triển An Phong của những người thuộc Lương tộc và con cháu họ là không hề nhỏ. Do tỉ lệ đông, trình độ cao so với mặt bằng chung và tham gia lãnh đạo các cấp nên có những việc, những vấn đề mà người họ Lương ở đây đã quyết định hình thành nên diện mạo An Phong trong mỗi thời kì:
Phúc xưa dầy: Nơi phát nguồn linh hiển- Đời càng vững Cây, bền Gốc;
Nền nay vững: Chốn li hương cần kiệm- Ngày thêm thắm Lá, tươi Cành.
Trong đó phải kể đến: người cán bộ đưa dân lên, lãnh đạo, tổ chức quản lí việc khai đất, lập làng, mở lớp dạy vỡ lòng, tạo mối quan hệ với thôn xóm khác và với xã, huyện cũng như nuôi dạy cháu con giữ vững truyền thống quê hương, gia tộc…là Lương Đức Thân. Đã được tặng Huân chương kháng chiến Hạng Ba Số 1286/1167 kí ngày 20/2/1997 của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam. Ông hoàn toàn xứng đáng với đôi câu đối con cháu khắc trên mộ:
Công cao mở đất lưu hậu thế (功高開坦留後世);
Đức cả rèn con rạng tổ tông (德哿教昆創組宗).
Hay người thanh niên trong Đội tiền tiêu lên phát đường, mỏ lối, dựng lán, làm nhà từ trước để đón dân, từng tiếp theo bác ruột dạy học vỡ lòng cho con em trong thôn, mở lớp Bình dân, xóa mù chữ cho người lớn, phụ trách thiếu niên và thanh niên, là Đảng viên đầu tiên được kết nạp ở An Phong; nhập ngũ tháng 5/1968 ở Tiểu đoàn Hoàng Liên Sơn II vào Nam chiến đấu, hi sinh ở mặt trận phía Nam ngày 02/5/1970 (27-ba-Canh Tuất). Đã được tặng thưởng HUÂN CHƯƠNG CHIẾN SĨ Vẻ VANG. Đó là Lương Đức An:
Xung kích khẩn hoang dựng quê mới, kết nạp nơi ải Bắc;
Tình nguyện lên đường đuổi ngoại xâm, hi sinh phía trời Nam.
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới những năm 1978-1985, một số người trong Lương tộc đã đứng trong quân ngũ, đóng góp cho việc giữ yên biên giới, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ địch. Đó là: Lương Đức Mến (Công an), Lương Đức Thuộc (Quân y), Lương Đức Tràng (Quân khí), Lương Đức Quang (BĐ Hóa học).
Thế hệ thứ Hai, Ba của Lương tộc tại đây đã khắc phục khó khăn, vươn lên học hành thành đạt công tác tại thôn, xã, huyện và tỉnh; góp phần làm đổi thay thôn xóm, rạng danh dòng tộc. Con cháu thế hệ hai của Lương tộc sinh sống, công tác tại thôn và xã là: Lương Đức Luân, Lương Đức Tràng, Lương Đức Quang, Lương Thị Thường, Lương Thị Dưỡng (mất 2004). Người ra huyện công tác là Lương Đức Hỗ (thương binh chống Mĩ), Lương Đức Thuộc, Lương Đức Luận, Lương Thị Nguyệt. Người công tác ở tỉnh là Lương Đức Mến, Lương Đức Thức, Lương Đức Hải Thương, Lương Đức Thuận, Lương Đức Hòa... Người chuyển nơi khác là: Lương Thị Nhớ, Lương Thị Mong (Bảo Hà, Bảo Yên, Lào Cai), Lương Đức Lơ (Phố Lu, rồi Trì Quang, mất 2005), Lương Thị Lý (Phố Lu), Lương Thị Sinh (Bắc Hà, mất 1994). Có người đi tới tận tỉnh khác lập nghiệp, như: Lương Đức Hởi (Đắc Lắc, mất 2001), Lương Thị Mai (Đắc Lắc), Lương Thị Vinh, Lương Thị Huyền Thương, Lương Thị Quỳnh (Hà Nội). Thế hệ thứ ba đều được ăn học, cố gắng phấn đấu, đạt nhiều Danh hiệu về học hành và tu dưỡng, có cháu theo học Thạc sĩ ngay ở tuổi 21, có cháu vào Đảng ngay trong trường Đại học ở tuổi 20. Các cháu nhỏ theo gương các anh, các chị đang có gắng trau dồi.
Những Đảng viên đầu tiên, người đầu tiên theo học, TN Cấp III, Đại học rồi Cao học; những thầy giáo, Kĩ sư, Bác sĩ, Thạc sĩ; các sĩ quan Sơ, Trung, Cao cấp ở xã Phong Niên đều là người trong Lương tộc và nhiều gia đình từng nhiều lượt được tổ dân phố, xóm làng suy tôn là “Gia đình hiếu học”. Năm 2010, gia đình Lương Đức Thân-Phạm Thị Uyển được UBND huyện Bảo Thắng cấp Bằng xác nhận kỷ lục: “Gia đình có nhiều người có trình độ Đại học và trên Đại học nhất”. Dù ở đâu, trên cương vị gì họ đều luôn nhớ về An Phong và có những đóng góp nhất định:
Cha ông mở đất xây thôn xóm (吒翁開坦立村社);
Cháu con tích học nối nghiệp nhà (宗昆積學綏業茄).
Những nữ thanh trong thôn hay nơi khác về làm dâu Lương tộc đều có trách nhiệm với gia đình, họ hàng, làng xóm, nhiều người xứng danh “Vượng phu ích tử” 旺夫益子. Đồng thời những gái Lương tộc làm dâu các gia đình trong thôn, ngoaì xã cũng góp phần nhất định vào sự phát triển của các gia đình ấy. Đó là Thường (dâu trưởng họ Vũ An Phong), Dưỡng (dâu trưởng họ Phạm An Phong), Vinh (dâu trưởng họ Lê Nam Cường, Yên Bái), rồi Sinh khởi tạo ra họ Hoàng Phú Thọ ở Bắc Hà, Mong khởi Nguyễn Kim Sơn (Baỏ Yên)...
So với thế hệ trước thì các gia đình nay kinh tế có khấm khá hơn nhưng nhìn chung vẫn còn chưa giầu, nhiều nhà còn khó khăn. Có gia đình khá giả một chút thì cái "Tâm" chưa đủ. Do vậy khá ít "Mạnh Thường quân" cho "Việc họ". Chính vì vậy nhiều ý tưởng tốt (xây Từ đường, trùng tu lại mộ dưới quê và trên Lào Cai, đóng góp cho họ gốc, hành hương...) chưa thực hiện được như ý muốn. Mong rằng điều này sớm được cải thiện.
Từ thực tế phát triển của địa phương cũng như của dòng họ hay mỗi gia đình càng thấy rõ chủ trương khai hoang những năm 60 thế kỉ XX là đúng. Nó góp phần làm đổi thay diện mạo cả quê mới lẫn quê gốc. Trong những năm đầu Thế kỉ XXI, việc xây dựng và phát triển hai hành lang và vành đai kinh tế Việt - Trung, trong đó có hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng là yêu cầu trong tiến trình hội nhập, phù hợp với phương châm phát triển của 2 nước Việt Nam – Trung Quốc “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” 长期稳定, 面向未来, 睦邻友好, 全面合作. Hợp tác Hải Phòng- Lào Cai gắn với việc xây dựng và phát triển hành lang kinh tế đó. Như thế sự gắn bó giữa người khai hoang và người ở quê lại càng mật thiết hơn, phù hợp với lợi ích 2 tỉnh, lợi ích quốc gia và khu vực.Thật là:
出高密旧鄉前田收媺穀: Xuất Cao Mật cựu hương tiền điền thu mĩ cốc;
派豐年新社昔樹發今花: Phái Phong Niên tân xã tích thụ phát kim hoa.
Dịch nghĩa: Xuất phát từ Cao Mật làng xưa, ruộng trước thu thóc tốt;
Chia phái lên Phong Niên xã mới, cây xưa nở hoa tươi.
Lào Cai, Mùa Báo hiếu 2011.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!