[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


28 tháng 7 2023

Tìm hiểu về VÃNG SINH

Trong một đám tang, thường có nhiều bức trướng hay lời ai điếu mà trong đó, từ được nhắc đến nhiều là: siêu sinh tịnh độ, “vãng sinh”,.... Vậy “vãng sinh” hay “vãng sinh cực lạc” rồi siêu sinh tịnh độlà gì?

Vấn đề sinh tử (生死,sống chết) được xem như vô cùng trọng đại đối với con người và từ xa xưa, cổ nhân đã biết rằng: SINH LY TỬ BIỆT (A: Separation in life and separation in death, P: Séparation du vivant et séparation de la mort, H: 生離死別) là sống mà chia lìa nhau, chết là xa cách vĩnh viễn. Cho nên người ta tiến hành TANG LỄ (A: Funeral rites, P: Rites funèbres, H: 喪禮) với nghi thức khá trang trọng với Tang sự (A: The funeral affairs, P: Les affaires funérales, H: 喪事) chu đáo, như: chuẩn bị quan tài, đồ khâm liệm, tang phục, tế lễ, cầu siêu, truy điệu, đưa tang, chôn cất,…. Phật Giáo chia sinh tử của chúng sinh làm 2 loại: Phần Đoạn Sinh Tử và Biến Dị Sinh Tử .

Phần Đoạn Sinh Tử 分段生死, còn gọi là Phần Đoạn Tử 分段死, Hữu Vi Sinh Tử 有爲生死, là chia đoạn sinh tử, đối xưng với

Biến Dị Sinh Tử 變異生死, tức chỉ chúng sanh mỗi đời quả báo chiêu cảm không giống nhau, cho nên hình tướng, thọ mạng cũng khác nhau; đó được gọi là Phần Đoạn Thân 分段身.

Phật giáo cũng khẳng định sau khi chết con người không mất hẳn mà tiếp tục luân hồi theo nghiệp đã tạo, trừ các bậc thánh. Thần thức, bardo hay gọi cho dễ hiểu là linh hồn vô ngã tiếp tục tồn tại ở các cõi hay cảnh giới phù hợp với nghiệp thức của người đó.

Chính quan điểm Nhị nguyên (A: Dualism, P: Dualisme, H: 二元論 ) ấy đã hình thành nên khái niệm “vãng sinh” hay “vãng sinh cực lạc”.

Vãng sinh 徃生: sau khi mạng chung sinh vào thế giới khác; thông thường từ này được dùng thay thế cho từ “chết”. Tức là là chết ở cõi trần nầy để sinh qua một thế giới khác. Bỏ thế giới ác trước qua cõi thế giới thanh tịnh yên vui của Đức Phật A Di Đà nên gọi là vãng (, tức là Đi, đến, đã qua, xưa, về sau, chết, xem). Khi qua đó rồi thì sanh vào hoa sen, đó kêu là sinh ( tức sinh ra)

Chú ý đây là nói về VÃNG SINH, chứ không phải là VÃN SINH (A: A lateborn, P: Un né tard, H: 晚生, tức “kẻ đến sau, hậu sinh”). 

Nếu nói về nghĩa rộng, vãng sinh có nghĩa là thọ sinh vào Ba Cõi, Sáu Đường cũng như Tịnh Độ của chư Phật; nhưng sau khi thuyết Di Đà Tịnh Độ 彌陀淨土 trở nên thịnh hành, từ này chủ yếu ám chỉ thọ sinh về thế giới Cực Lạc (s: Sukhāvatī, 極樂). Vãng sinh được chia làm 3 loại:

(1) Cực Lạc Vãng Sinh 極樂徃生, căn cứ vào thuyết của Vô Lượng Thọ Kinh 無量壽經, Quán Vô Lượng Thọ Kinh 觀無量壽經 và A Di Đà Kinh 阿彌陀經; tức là xa lìa thế giới Ta Bà (s, p: sahā, 娑婆), đi về cõi Cực Lạc Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà ở phương Tây, hóa sinh trong hoa sen của cõi đó.

(2) Thập Phương Vãng Sinh 十方徃生, căn cứ vào thuyết của Thập Phương Tùy Nguyện Vãng sinh Kinh 十方隨願徃生經, tức vãng sinh về các cõi Tịnh Độ khác ngoài thế giới của đức Phật A Di Đà.

(3) Đâu Suất Vãng sinh 兜率徃生, y cứ vào thuyết của Di Lặc Thượng Sanh Kinh 彌勒上生經 cũng như Di Lặc Hạ Sanh Kinh (彌勒下生經); có nghĩa rằng Bồ Tát Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒) hiện đang trú tại Nội Viện Đâu Suất (s: Tuṣita, p: Tusita, 兜率), đến 16 ức 7 ngàn vạn năm sau, Ngài sẽ giáng sanh xuống cõi Ta Bà để hóa độ chúng sanh. Người tu pháp môn này sẽ được vãng sinh về cung trời Đâu Suất, tương lai sẽ cùng Bồ Tát Di Lặc xuống thế giới Ta Bà. Phần nhiều hành giả Pháp Tướng Tông 法相宗 đều tu theo pháp môn này.

Ngoài ra, còn có các tín ngưỡng vãng sinh khác như người phụng thờ đức Phật Dược Sư (s: Bhaiṣajyaguru, 藥師) thì sẽ được vãng sinh về thế giới Tịnh Lưu Ly 淨瑠璃 của Ngài; người phụng thờ Bồ Tát Quán Thế Âm (s: Avalokiteśvara, 觀世音) thì được vãng sinh về cõi Bổ Đà Lạc Ca (s: Potalaka, 補陀洛迦); người tín phụng đức Phật Thích Ca (s: Śākya, p: Sakya, 釋迦) thì được sanh về Linh Thứu Sơn 靈鷲山; người tín phụng Hoa Nghiêm Kinh (s: Buddhāvataṃsaka-nāma-mahāvaipulya-sūtra, 華嚴經) thì được vãng sinh về Hoa Tạng Giới 華藏界; tuy nhiên, các tín ngưỡng này rất ít, nên vẫn chưa hình thành tư trào.

 Như đã nêu trên, Cực Lạc Vãng sinh và Đâu Suất Vãng sinh là hai dòng tư tưởng chủ lưu của Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, v.v. Đối với Tam Luân Tông, Thiên Thai Tông, Hoa Nghiêm Tông, Thiền Tông, v.v., Cực Lạc Vãng sinh là phương pháp tự lực thành đạo. Riêng đối với Tịnh Độ Tông, tư tưởng này nương vào sự cứu độ của đức giáo chủ Di Đà làm con đường thành Phật, nên được gọi là Tha Lực Tín Ngưỡng. Còn Đâu Suất Vãng sinh là tư tưởng thích hợp đối với Pháp Tướng Tông, được xem như là pháp môn phương tiện tu đạo.

Tại Nhật Bản, trong Tây Sơn Tịnh Độ Tông 西山淨土宗 có lưu hành 2 thuyết về vãng sinh là Tức Tiện Vãng sinh 卽便徃生 và Đương Đắc Vãng sinh 當得徃生. Tịnh Độ Chơn Tông thì chủ trương thuyết Hóa Sinh 化生)vãng sinh về Chân Thật Báo Độ 眞實報土, và Thai Sanh 胎生 vãng sinh về Phương Tiện Hóa Độ 方便化土, v.v.

Một số tác phẩm của Trung Quốc về tư tưởng vãng sinh như An Lạc Tập (安樂集, 2 quyển) của Đạo Xước (道綽, 562-645) nhà Đường, Vãng sinh Luận Chú 徃生論註, còn gọi là Tịnh Độ Luận Chú 淨土論註, 2 quyển) của Đàm Loan (曇鸞, 476-?) thời Bắc Ngụy, v.v.

Về phía Nhật Bản, cũng có khá nhiều thư tịch liên quan đến tư tưởng này như Vãng sinh Thập Nhân (徃生拾因, 1 quyển) của Vĩnh Quán 永觀; Vãng sinh Yếu Tập 徃生要集 của Nguyên Tín 源信; Nhật Bản Vãng sinh Cực Lạc Ký 日本徃生極樂記 của Khánh Tư Bảo Dận 慶滋保胤; Tục Bản Triều Vãng sinh Truyện 續本朝徃生傳 của Đại Giang Khuông Phòng 大江匡房; Thập Di Vãng sinh Truyện 拾遺徃生傳, Hậu Thập Di Vãng sinh Truyện(後拾遺徃生傳 của Tam Thiện Vi Khang 三善爲康; Tam Ngoại Vãng sinh Truyện 三外徃生傳 của Liên Thiền 蓮禪; Bản Triều Tân Tu Vãng sinh Truyện 本朝新修徃生傳 của Đằng Nguyên Tông Hữu 藤原宗友; Cao Dã Sơn Vãng sinh Truyện 高野山徃生傳 của Như Tịch 如寂, v.v.

Thần chú trì tụng để được vãng sinh về cõi Tịnh Độ là Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sanh Tịnh Độ Đà La Ni 拔一切業障根本得生淨土陀羅尼, còn gọi là Vãng sinh Quyết Định Chơn Ngôn 徃生決定眞言) hay Vãng sinh Tịnh Độ Thần Chú 徃生淨土神呪.

Trong Tịnh Độ Chứng Tâm Tập 淨土證心集 của Vạn Liên Pháp Sư 卍蓮法師)nhà Thanh có câu: “Tam Giáo đồng nguyên, thống Nho Thích Đạo, câu kham niệm Phật, nhất tâm quy mạng, cụ Tín Nguyện Hạnh, tận khả vãng sinh 三敎同源、統儒釋道、俱堪念佛、一心歸命、具信願行、盡可徃生, Ba Giáo cùng gốc, cả Nho Thích Đạo, đều chung Niệm Phật; một lòng quy mạng, đủ Tín Nguyện Hạnh, thảy được vãng sanh.”

Chú ý: Vãng sinh Thần Chú 往生神咒 còn được gọi là: Chú Vãng Sinh, Vãng sinh Chân ngôn, Vãng sinh Quyết định Chân ngôn, là câu niệm bằng tiếng Phạn đặc biệt của Phật giáo để cầu nguyện với Đức Phật A-Di-Đà cứu độ linh hồn người chết được sanh về cõi Niết Bàn.

Vãng sinh Thần chú bằng tiếng Phạn gồm 59 chữ, được giải nghĩa theo PHTĐ của Đoàn Trung Còn như sau:

Nam-mô A-Di-Đà Bà-Dạ: Tiếng Phạn là Namah Amitabhavyuha, nghĩa là: qui kính Đức A-Di-Đà Phật.

Đa-Tha-Già-Đa-Dạ: Tiếng Phạn là Tathagata, nghĩa là: Như Lai. (Như Lai là một trong 10 hiệu của Phật).

Đa-Điệt-Dạ-Tha: dịch là tức thuyết chú viết, nghĩa là: liền đọc bài chú dưới đây:

A-Di-Rị-Đô-Bà-Tì, A-Di-Rị-Đa; Tất-Đam-Bà-Tì, A-Di-Rị-Đa; Tì-Ca-Lan-Đế, A-Di-Rị-Đa; Tì-Ca-Lan-Đa, Già-Di-Nị; Già-Già-Na, Chỉ-Đa-Ca-Lệ.

(10 câu trên đều là mật ngữ, đại ý có nghĩa là: nhổ bỏ tận gốc các nghiệp chướng).

Ta-Bà-Ha: tiếng Phạn là Swâha. Thường các bài Thần chú đều có ba chữ chót là Ta-Bà-Ha, có nghĩa là: Thành tựu, kiết tường, tiêu tai tăng phước, viên tịch, vô trụ, kính Phật chứng minh.

Vãng sinh cực lạc 往生極樂 tức đi về An lạc quốc thanh tịnh  安樂國 hay cõi Niết Bàn 涅槃!

Chú ý rằng “tịnh độ” (A: The pure earth, P: La terre pure, H: 靜土) chỉ cõi trong sạch nên Siêu sinh tịnh độ 淨土 là mong lướt đến Thế giới Cực lạc tức cõi Niết bàn!

(Biên soạn từ nhiều nguồn tham khảo mà chủ yếu từ Từ điển Phật giáo Từ điển Cao Đài.)

-Lương Đức Mến, 10/6/Quý Mão-

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!