Ngày trước, mọi nghi thức về Quan hôn tang tế (冠婚喪祭, 4 nghi lễ quan trọng nhất trong vòng đời của một người) được cổ nhân thực thi khá nghiêm túc, có thầy bà am hiểu lễ nghĩa hẳn hoi “đạo diễn” chứ không đơn thuần chỉ là “hoạt ngôn” như mấy MC thời nay!
Trong đó có người còn phân biệt rõ Cát lễ (吉禮, lễ về cái may mắn, tức Tế lễ), Hung lễ (凶禮, khi gặp điều không may, tức Tang lễ), Quân lễ (官禮, bái tướng, xuất sư, hiến phù) và Gia lễ 家禮, phổ dụng trong đời sống hằng ngày, trong gia đình,…). Nhưng thực thi cho đủ lệ bộ, trình tự theo quy củ của cổ nhân trong thời @ thì khó lắm và đôi khi, ngay trong gia đình mang tiếng là “lễ giáo” đấy thế nào lại chả có người cho rằng hâm, vẽ chuyện!
Trước hết, xin tìm hiểu về 4 chữ vừa nêu đã:
Quan 冠: Cái mũ, lễ đội mũ; đây là “Lễ đội mũ” cho con trai khi lớn lên vừa tròn 20 tuổi, gọi là Lễ Gia Quan (加冠禮, tuổi Nhược quán 弱冠), ngày nay đã bỏ. Nhưng vẫn giữ chữ này để chỉ phép tắc cư xử giữa những người trong họ và trong xã hội.
Hôn 婚: việc hôn nhân, tức là việc cưới vợ cho con trai hay việc gả chồng cho con gái khi đến tuổi trưởng thành mà Hán tự viết là 婚姻 - 婚禮, Anh ngữ là Marriage - Marriage ceremony còn Pháp ngữ là: Mariage - Cérémonie de mariage. Trong đó: Hôn 婚: Việc cưới vợ gả chồng, chỉ bên nhà gái. Nhân 姻: chỉ bên nhà trai. Gộp lại “Hôn Nhân” là “việc kết nghĩa thông gia giữa hai họ”.
Tang 喪 còn đọc là TÁNG: lễ đám ma, tức: việc để tang, cúng tế và chôn cất người chết. Trong đó: Tang lễ (H: 喪禮, A: Funeral rites, P: Rites funèbres) là nghi thức làm lễ trong một đám tang. Còn Tang sự (H: 喪事, A: The funeral affairs, P: Les affaires funérales) là việc tang, tức là những việc lo cho người chết (như: quan tài, đồ và việc tẩm liệm, tế lễ, cầu siêu, đưa tang, chôn cất).
Tế 祭: việc tế lễ, tổ chức cúng tế theo nghi thức long trọng. Ví dụ như: Tế lễ, Tế tự, Tế vật tới Trời Đất và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại nơi Đình, Miếu, Nhà thờ, Chùa,….
Nếu để ý sẽ thấy, cổ nhân đưa chữ 冠 “Lễ đội mũ” lên đầu tiên để nhắc nhở mọi người rằng khi bước vào “Quan trường” 官場 phải tập tành, rèn luyện từ lúc trẻ, chưa trưởng thành! Chứ bập vào mà mần lấy uy ngay thì là “chín ép” và sẽ sớm lụi, mau tàn!
Riêng từ “quan”, ít nhất có 6 chữ cùng âm đọc. Ví dụ:
1. QUAN: 官 Chức quan, của công (Quan lại 官吏, Quan liêu 官僚, Quan viên 官員, Quan trường 官場, Quan pháp vô thân 官法無親).
2. QUAN: 關 Cửa ải, then cửa, đóng, quan hệ, họ (Quan ải 關隘, Quan hệ 關係, Quan tâm 關心).
3. QUAN: 觀 Nhìn xem, hình tượng đã xem, ý thức (Quan điểm 觀點, Quan kiến 觀見, Quan niệm 觀念).
4. QUAN: 冠 Cái mũ (nón), lễ đội mũ (Quan Hôn Tang Tế 冠婚喪祭).
5. QUAN: 棺 Cái hòm để liệm xác chết (Quan tài 棺材, Quan quách 棺槨).
6. QUAN: 鰥 Người đàn ông góa vợ (Quan phu, Quan quả cô độc 鰥寡孤獨).
Vì vậy, khi soạn “Từ điển tra chéo” khen “làm quan giỏi” là “quan tài”, người soạn cần tận dụng hiện tượng cùng âm, khác nghĩa của Hán tự trong “Quan hôn tang tế “ 冠婚喪祭 chỉ 4 nghi lễ quan trọng nhất trong vòng đời của một người theo quan niệm của người xưa. Trong đó: QUAN: 官 Chức quan, của công trong Quan lại (H: 官吏 , A: Mandarins, P: Mandarins) ; còn QUAN: 棺 là chỉ cái hòm để liệm xác chết, tức quan tài (H: 棺材, A: The coffin with a dead body in it, P: Le cercueil renfermant le corps du mort).
Do vậy mọi thuật ngữ trong “tra chéo” phải là thuật ngữ có trong tang chế (H: 喪禮, A: Funeral rites, P: Rites funèbres) của dân gian và chứa thành tố “quan”! Ví dụ bài sau:
Nhét ghế cho con, để cháu sớm NHẬP QUAN;
Quan hay con quan đi lấy bằng ắt vào LÒ QUAN;
Ăn “hoa hồng” từ các dự án xây dựng, sắp xếp ghế ngồi,...là TRỊ QUAN;
Được bổ nhiệm lên chức cao hơn, đó là THĂNG QUAN;
Từ ngành lên huyện, “tráng men” rồi về tỉnh đúng quy trình ĐỘNG QUAN;
Đi đến đâu quan chỉ trúng chỗ cần khai khoáng, hạ cây,...chứng tỏ giỏi QUAN SÁT;
Nhà các xếp ở luôn kín cổng cao tường, là QUAN QUÁCH;
Sơ, Tổng kết nào trong danh sách khen cũng có tên, xứng danh QUAN TÀI;
Nghỉ hưu, lấy sổ đã được HẠ QUAN;
Từ biệt phủ chuyển đến biệt giam là DI QUAN;
Trích một phần của vơ vét được để xóa bớt tội lỗi là LẤP QUAN;...
-Lương Đức Mến, ngày nóng 04/4/Quý Mão-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!