[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


17 tháng 7 2015

Tại sao phải 'BỔ TÚC"

Cuốn GIA PHẢ CHI HAI HỌ LƯƠNG XÃ CHIẾN THẮNG, HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG kể từ lúc nẩy sinh ý tưởng đến nay đã được 3 năm. Đề cương đã xong, các Phiếu Điều tra đã in và gửi đi lấy tư liệu và cũng đã nhận được nhiều ý kiến phản hồi. Khác các cuốn Gia phả mà tôi từng tiếp xúc, cuốn này tôi có thêm phần “bổ túc”. Lý do của phần khác thường này bởi tính từ khi cụ Tổ vượt sông Úc sang định cư, sinh ra dòng họ Lương xã Chiến Thắng đến nay đã ngót 300 năm. Đây là quãng thời gian mà đất nước, làng xóm trải qua bao thăng trầm, biến đổi:
 Về mặt thể chế chính trị: từ chế độ “lưỡng đầu chế” (兩頭制, 1533-1789), “Nam-Bắc phân tranh” (鄭阮紛爭, 1627-1775) rồi thống nhất dưới “chế độ quân chủ” (君主制, 1778-1858), thành “thuộc địa nửa phong kiến” (H: 半殖民地半封建, P: Colonie semi-féodal, 1884-1945), sang “Kháng chiến kiến quốc” (1946-1954), hai miền “tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược” (1955-1975) tiến tới thống nhất, bảo vệ tổ quốc (1976-1986) XHCN và nay là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Về mặt chữ viết: Đồng thời với quát trình biến động về chính trị là quá trình mà khi ghi chép từ chữ tượng hình[1] chuyển sang dùng chữ Latin[2].
Về mặt chép và nhân bản: từ chỗ bằng bút lông chuyển sang bút sắt nhân bản từ chép sao đến in khắc, sắp chữ rồi photocoppy; từ viết tay sang gõ bằng máy đánh chữ (H: 打字机, A: Typewriter, P: Machine à écrire) đánh bằng máy tính bằng (H: 電子計算機, A: Computer, P: Ordinateur).
Hệ quả: Kéo theo sự thay đổi về thể chế chính trị, chữ viết là sự thay đổi về nhân sinh quan; về tổ chức hành chính, cương vực, địa dư, địa danh, cảnh quan; về việc họ và cơ sở vật chất đảm bảo...
Do hoàn cảnh biến động, ngay nay, nếu ai đó đọc, nghiên cứu gia phả thì nhiều người, nhất là lớp trẻ, kiến thức xã hội hạn hẹp sẽ bỡ ngỡ, lúng túng không thể hiểu được sự việc, con người thời trước ghi trong đó nên hiểu không hết nội dung, không nắm bắt được tâm ý của tiền nhân, càng khó hơn cho việc tục biên, bổ sung.
Chính vì vậy, trước khi bắt tay vào soạn Chính phả tôi đã sưu tầm tư liệu, nghiên cứuc một số kiến thức cơ bản về “Họ”, “Việc Họ”, “Gia phả”, “việc soạn Gia phả” và “Dư địa chí”, “Địa-Lịch sử”,...vùng đất liên quan trong 3 thế kỷ qua. Điều này giúp định hướng cho việc thu thập, xử lý tư liệu, biên soạn gia phả của người chắp bút cũng như việc sử dụng, nghiên cứu gia phả của quan viên họ, nhất là những nội dung ngược thời gian 100 năm về trước. 
Nội dung “bổ túc” này sẽ lược thuật chép tại phần LỜI NÓI ĐẦU và chắc chắn nó không có ở các bộ Gia phả khác.
Mong rằng những kiến thức đó sẽ bổ ích cho quan viên họ và những ai quan tâm đến “Việc Họ” và “Gia phả”.
-Lương Đức Mến-


[1] Chữ Hán 漢字 là một dạng chữ viết biểu ý, tượng hình ghi tiếng  Hán và chữ Hán cổ nhất là loại chữ Giáp Cốt (Giáp Cốt Tự 甲骨字), xuất hiện vào đời nhà nhà Thương (, 1766 tCn–1122 tCn), viết trên các mảnh xương thú vật và có hình dạng rất gần với những vật thật quan sát được. Có nhiều biến thể và cách viết trong suốt lịch sử Trung Quốc chữ Kim (Kim Văn 金文) thời Chu (, 1021-256 tCn), chữ Triện (Đại Triện và Tiểu Triện) thời Chiến Quốc (戰國, 403-221 tCn) và có chữ Lệ (Lệ Thư 隸書) thời nhà Tần (, 221-206 tCn), chữ Khải (Khải Thư 楷書) thời Nhà Hán (, Tiền Hán 206 tCn-8 CN, Hậu Hán 25-220), chữ Khải còn có thể được chia thành chữ Hành (Hành Thư 行書) và chữ Thảo (Thảo Thư 草書). Chữ Hán được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam từ thế kỷ III. Ngày nay ở Đài Loan sử dụng chữ Phồn thể 繁體字 còn Đại lục thì dùng chữ  Giản thể 簡體字, lập ra hệ pinyin (phiên âm) bằng chữ Latin.
Do nhu cầu ghi địa danh, tên người hoặc những khái niệm không có trong Hán tự, người Việt đã sử dụng chữ Hán để tạo ra chữ viết của mình, đó là chữ Nôm 字喃 với những nguyên lý khá phức tạp. Chữ Nôm được ghi nhận thành quốc ngữ 國語, chính thức xuất hiện và phát triển khi quan Hình bộ Thượng thư 刑部尚書 Nguyễn Thuyên (阮詮, tức Hàn Thuyên 韓詮, 1229-?) vâng lệnh Trần Nhân Tông (陳仁宗, 1279-1293), làm bài “văn Tế cá sấu”  文祭 ���� bằng chữ Nôm vào mùa thu năm Nhâm Ngọ 壬午 1282, khi quân Nguyên (元朝, 1271 - 1368) đang ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta lần thứ 2. Nhưng vì được cấu tạo trên căn bản chữ Hán, nên khi muốn học chữ Nôm thì phải biết chữ Hán nên vẫn không phổ thông và ít được sử dụng rộng rãi.
[2] Manh nha từ giữa thế kỷ 16 bởi các giáo sĩ phương Tây đến  truyền đạo và sự hợp tác tích cực và hiệu quả của nhiều người Việt, trước hết là các thầy giảng. Sau đó, đến ngày 18/9/1924 toàn quyền Đông Dương Martial Merlin (1923-1925) ký quyết định dạy chữ Quốc ngữ ở ba năm đầu cấp tiểu học thì sự truyền bá chữ Quốc ngữ được chính thức, rộng khắp ở mọi nơi trên mọi lĩnh. Sau khi giành chính quyền, tuyên bố độc lập, 08/09/1945 Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà có  Sắc lệnh số 20 về học chữ quốc ngữ bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Tuy nhiên các văn bản truyền thống (Gia phả, Văn sớ…) và ngay trên văn bản của nhà nước vẫn xen dùng chữ Hán. Ví dụ: Giấy Khai Sinh năm 1938 vẫn còn sử dụng 4 ngôn ngữ (Hán, Nôm, Quốc ngữ và Pháp); tiền Đông Dương (P: Piastre indochinoise, H: 法屬印度支那元) phát hành và lưu thông trong thời gian từ năm 1885 đến năm 1954 có dòng chữ Hán 東方滙理銀行 (Đông phương hối lý ngân hàng). Sau này trên tờ tiền giấy do Chính phủ VNDCCH phát hành vào ngày 31/01/1946 và lần đổi tiền ngày 06/5/1951thì tên nước và mệnh giá viết bằng Quốc ngữ (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) và chữ Hán (越南民主共和); chỉ từ sau lần đổi tiền ngày 28/02/1959 trở đi thì mới hoàn toàn không còn chữ Hán. Chữ Việt nay có 29 chữ cái, có 149 âm tố, có 6 thanh điệu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!