Trưởng họ (Đời thứ 9) Lương Đức Kiện đang Tế dịp Giỗ Tổ năm 2012 |
Bởi nhiều nguyên do,
năm nay lại không thể về dự Giỗ Tổ được. Sẽ tổ chức Giỗ Vọng tại Gia đường. Soạn
bài này kính dâng lên Tổ :
MỪNG HÔM NAY:
Rằm Nguyên Tiêu khí sáng, trời
xanh, Đất Phương Hạ rộn vui xóm ngõ;
Ngắm núi Voi sừng sững, tưởng
lại cội xưa, Nhìn sông Úc vỗ bờ, nghĩ về nguồn cũ;
Con cháu tộc Lương, Từ mọi
phương hướng về đất Tổ.
Tụ họp tại Từ đường cùng
nhau Giỗ họ.
THUỶ TỔ XƯA:
Nhà 2 con gặp cảnh điêu
linh; Nước “lưỡng chế”[3]
cơ đồ nghiêng ngửa.
Xứ Đông[4]
lụt lội, bao cảnh tang thương; Làng xóm xác xơ, đời càng thêm khổ.
Đành một gánh từ bỏ quê
hương; Dắt vợ con tìm nơi dễ thở[5].
Thấy bên tả sông Văn nước ngập,
muỗi đầy, người vẫn còn thưa; Bèn sang đó đắp bờ thau chua, rửa mặn, phát
hoang, cầy vỡ.
Công sức mồ hôi đã thấu đến
trời, Lại được họ Nguyễn, họ Mai[6]
giang tay giúp đỡ.
Xây thành xóm, thành ruộng
thành đồng; Dựng nên nhà, nên chồng, nên vợ.
Hoài cố hương, trở lại Đăng
Lai[7];
Tiếp căn cơ và hương khói Tổ.
Lưu cháu con xây dựng Hạ
Hương; Khởi tổ tiên họ Lương tân thổ.
ĐẾN ĐỨC TỔ TA:
Cha vốn gốc Phương Lai, Mẹ
Quan Bồ[8]
cùng lộ.
Tuổi thơ ấu, xa cách chẳng
biết nhau, Thời khôn lớn nên duyên chồng
vợ.
Tiếp việc mẹ cha xây dựng Hạ
Hương[9],
Bao công sức, khơi mương, vượt thổ.
Bồi lấp bãi lầy, Dọn quang
lăn, cỏ.
Đây Cốc Tràng, Tôn Lĩnh, Kim
Côn khi sương chiều, khi nắng sớm, nghĩa hương thôn ấm lạnh đỡ đần; Kìa Hương Lạp,
Mông Tràng, Tôn Lộc[10],
lúc nắng Hạ, lúc mưa Đông, tình xóm làng răng môi gắn bó.
Việc cấy cày, đã hết dạ chăm
lo; Đường học vấn, còn dày công dạy dỗ[11].
Thuật xử thế ngoài êm trong ấm,
thầy hay bạn tốt, chọn nhân nghĩa phương châm; Việc tề gia trên thuận dưới hòa,
con thảo cha hiền, dùng hiếu từ quy củ.
Công ơn mở đất, ai cũng kính
yêu; Tâm huyết xây quê, đời càng thấy rõ.
Theo đà tiến triển, cùng dân
cũ tô điểm quê cha; Giữ nếp cổ truyền, nhớ cội nguồn dựng xây đất tổ.
THẾ RỒI :
Đang lo cấy cày, gặp buổi
nhiễu nhương; Lại thương nỗi nhân dân đói khổ.
Vâng mệnh trên, Văn Úc xuôi
dòng; Việc điếu phạt phò Vua dẹp bỏ[12].
Rằm tháng Giêng phỉ bình
nhưng Cụ bị trận vong; Nhớ lời dặn, cháu con chọn làm ngày giỗ Tổ.
Sống nhiệt thành, tử trận
linh thiêng; Với hậu thế Người luôn phù hộ[13].
HẬU DUỆ TRUYỀN :
Noi gương Tổ: ngày thất bát
hai vợ chồng- Bên nồi, bên con, thau chua rửa mặn lập ra làng xóm, gây nghiệp
kiệm cần; Học tiền nhân: Buổi khai hoang vài chi phái- Vượt núi, băng rừng, san
đồi, vỡ ruộng dựng nên thôn bản, xây dòng tiến bộ[14].
Lời xưa, ý nay bồi đắp: đạo
Thánh hiền cháu con ghi nhớ noi theo; Đất cũ, làng mới xum vầy: tình cốt nhục
khắp nơi thân thương gắn bó.
Đức khai cơ cao tựa núi
Voi; Ân dưỡng dục dài hơn sông Úc.
Mênh mông bể cả, tổ ấm tài bồi;
Thăm thẳm non cao, tôn công tế độ.
Để có ngày phú quý, bao công
sức đổ xuống đất này; Vì sự nghiệp mai ngày, biết bao lần vượt khó.
Quê hương đổi mới nhờ địa lợi
mà bát ngát màu xanh; Nội lực phát huy lấy nhân hoà để vượt qua gian khổ.
ĐÚNG LÀ:
Tu nhân, tích đức,
Phật đền cho; Khổ tứ, lao tâm, Trời chẳng phụ.
Trải lúc cơ trời biến cải,
dù buổi thái bình hay cơn binh lửa, sức âm phò quả đã vô cùng; Qua tuần cuộc
thế đổi thay, dù nơi đất khách hoặc chốn quê nhà, ơn mặc trợ mỗi ngày mỗi tỏ.
Đất lành người đảm, đời này
sang đời nọ, thụ hưởng hồng ân; Nhân tốt
quả xinh, lớp trước tiếp lớp sau, đượm nhuần phúc thọ.
NAY GẶP BUỔI:
Kinh tế thị trường, Giao lưu mở cửa.
Dẫu đã hướng đi lên; Còn
muôn điều thách đố.
Sao cho kịp bước canh
tân, Để khỏi mang danh bảo thủ.
Học ông cha: mở óc suy
tư, Cùng dòng họ: bền gan gắng cố.
Khắp tứ phương: Nam, Bắc,
ngược, xuôi, Dù bách nghệ : sĩ, nông, công, cố.
Đường kinh doanh đã quyết là
thành, Nghiệp khoa cử đã thi là đỗ.
BỞI THẾ CHÁU
CON NAY:
Tu sửa Gia đường; Chỉnh
trang Phần mộ.
Nhớ người góp công sửa chỗ
đi về; Ghi người công đức xây nơi thờ tự.
Mộ phần tu chỉnh, nghìn thu
cựu tích tô bồi; Tự sở phong quang, năm Phái cơ ngơi minh lộ.
Sưu tầm tài liệu, thi văn
tuyển trạch, phụ lục dồi dào; Bổ túc di dung, thế thứ phân minh, Phái Chi đầy
đủ.
HÔM NAY :
Sát cánh bên nhau, Trước bàn
thờ Tổ.
Sắm hương hoa, một lễ chân
thành, Tưởng công đức muôn phần ngưỡng mộ.
Nghe Chúc văn, lưu công đức
muôn đời; Dõi sơ đồ, rõ quế hòe trăm nụ.
Cúi nguyện
nghĩ: Vầng nhật nguyệt sáng rạng mười phương; Đức Tổ tông lưu danh muôn
thuở.
Ngẩng cao trông: Phúc ấm nối
đời, “Tế thần, thần tại'” giáng nơi Từ Đường; Cháu con thờ phụng, “Xuân kị Thu
thường” đều kỳ cúng giỗ.
Thắp nén hương nghi ngút tại
Gia đường, Đặt cành hoa ngạt ngào dâng lên mộ Tổ.
Tấm lòng tôn kính, lễ bạc tiến
nghinh; Văn tế nôm na, tấc thành biểu lộ.
Tưởng nhớ ân sâu Đấng Anh
Linh, Tâm nặng nghĩa dầy Tiên Liệt Tổ.
Nguyện Hiếu, Trung, vì Nước
vì Dân, Tròn Tình, Nghĩa với Đời, với Họ.
Mang Chính Tâm dạy cho con
cháu, lấy Nhân Tín làm điều xử sự.
Người ở quê giữ phần hương
khói chăm sóc Gia đường, tạo tôn phần mộ.
Kẻ đi xa khơi dòng ôn cố, dốc
tâm dựng cơ đồ, rạng danh đất cũ.
CÚI XIN:
Lương tộc Lịch đại Tổ tiên từ
cõi linh thiêng, Ân Đức dẫn đường giúp con cháu ngày thêm tiến bộ.
Để mọi người đạt thành may mắn;
Cho toàn gia Khang Ninh Phúc Thọ.
Làng xóm mạnh giầu, Quốc cường,
dân phú.
Khắp ngược xuôi, Hạnh phúc
Yên Vui, dòng Lương tộc mãi mãi sáng danh; Đều trai gái, công đức ngàn trùng,
giữ nếp gia tiên, khói hương muôn thuở.
Lòng thành kính bái, xin được
chứng minh; Ước vọng dâng lên, kính xin tế độ.
-Cẩn
cáo-
Lương Đức Mến (Đời thứ Bẩy) phụng soạn đầu Xuân Ất
Mùi 2015 遞七代梁德悗 奉纂
[1]
Tiên Lãng xưa, vào thời Lê Thánh Tông là huyện Tân Minh 新明縣, năm 1600 do kiêng húy Vua Lê
Kính Tông hiệu Duy Tân nên Tân Minh đổi thành Tiên Minh 先明 sau đó do phạm húy Vua Hàm Nghi (hiệu
Ứng Minh) nên năm 1884 đổi thành Tiên Lãng 先朗.
[2]
Bộ Mộc 木 ghép
với chữ Thủy 水
viết dưới dạng bộ 氵thành
ra chữ Lương 梁, chỉ tên dòng họ.
[3]
Vua Lê-chúa Trịnh”.
[4]
Đất An lão hồi đó thuộc Hải Đông, còn gọi là xứ Đông.
[5]
Giữa thế kỷ XVIII, gặp cảnh “Gia bần niên cơ” Thượng tổ “bên nồi bên
con” từ Tiên Minh sang đất Cao Mật khai cơ, lập nghiệp.
[6]
Những họ có trước ở Cao Mật.
[7] Đăng Lai 登來 (sau cải là Phương Lai 芳來) thuộc tổng Kênh Thanh (nay là xã Cấp Tiến huyện Tiên Lãng).
[8] Quan Bồ 關蒲 thuộc tổng Kênh Thanh.
[9]
Làng Hạ là tên Nôm của Mông Tràng Hạ蒙場下, làng Hương là tên Nôm của Hương
Lạp 香粒 thuộc
tổng Cao Mật 高密總,
nơi Thượng tổ dừng chân ban đầu khoảng năm 1750. Năm 1883 Hương Lạp 香粒 đổi
thành Phương Lạp 芳粒 do kị húy tên vợ Vua Tự Đức, dưỡng mẫu Vua Kiến Phúc (建福, 1869-1884) là Nguyễn Thị Hương 阮氏香 và
đến 1966 hai làng nhập một, nay thống nhất gọi là thôn, thôn Phương Hạ.
[10] Các xã thuộc tổng Cao Mật tính từ thượng nguồn xuống là: Kim Côn
今崑, Côn Lĩnh 崑嶺, Mông Tràng Thượng 蒙場上, Mông Tràng Hạ 蒙場下, Phương Lạp方粒, Cốc Tràng 谷場, thôn Tôn Lộc 尊祿 và Cao Mật 高密.
[11] Con
cháu cụ Đồ Thiệu 第四枝宗 梁公劭
[12] Nhiều
khả năng Tổ chỉ huy hương binh 鄕兵正營 trong vùng hay thuyền lương (“Tào vận ty” 漕運司) ở
cửa sông Úc tiếp tế cho quan quân khi đánh dẹp khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu (1741-1751).
[13] Xem
bài “Hạ Thập kỳ” và lịch sử ngày giỗ Tổ.
[14] Chỉ
các chi phái họ Lương gốc xã Chiến Thắng, hyện An Lão, đi xây dựng quê hương mới ở Lào Cai, Điện
Biên, Đắc Lắc,…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!