[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


23 tháng 7 2014

Nghĩ về VIỆC HIẾU và NỘI DUNG CỦA NÓ

So với trong họ, tôi là người được học hành cơ bản, rảnh thời gian, đi lắm nên đọc được nhiều, va chạm khối chuyện, tích cóp khối kinh nghiệm. Đã đến lúc tập hợp, biên soạn lại để dùng khi cần và con cháu, anh em trong họ tham khảo.
Hoạt động nghi thức của con người, theo Lễ kinh 禮經 gói trong 4 chữ: Quan (,  phép tắc cư xử giữa mọi người trong xã hội), Hôn (nghi lễ thành gia lập thất, duy trì lễ pháp tông đường), Tang (, nghi lễ kết thúc chu trình vòng đời một con người) Tế (, nghi lễ tôn thiên kính địa, lễ bái tiền nhân, tổ tiên của dòng họ). Đó là một phần trong thực hành Tín ngưỡng (H: 信仰, A: The religious belief, P: La croyance religieuse), thể hiện niềm tin thiêng liêng, sự ngưỡng vọng của con người vào những cái “siêu nhiên” 超然, đối lập với cái “trần tục” 塵俗, cái hiện hữu. Đó là một nét đẹp rất nhân văn của xã hội hiện đại có dân chủ thực sự và nhờ tín ngưỡng, con người được tôn vinh, cuộc sống thêm đẹp đẽ, quan hệ với nhau thêm thân thiện[1].
Trong đó những điều về ứng xử trong gia đình. Về việc này, chương “Vi chính” 為政第二 sách Luận Ngữ 論語 có viết: “, 事之以禮. , 葬之以禮, 祭之以禮” (“sinh, sự chi dĩ lễ; tử, táng chi dĩ lễ; tế, chi dĩ lễ”) có nghĩa là: Khi cha mẹ sống thì theo lễ mà phụng sự cha mẹ, khi cha mẹ chết thì theo lễ mà an táng, khi cúng tế cũng phải theo đúng lễ. Cổ nhân có câu: “Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên” 千經萬典孝義為先.  “Hiếu kính孝敬 với cha mẹ là phải tận tâm chăm sóc và vâng lời.
Với người Việt, “Hiếu” trở thành lẽ sống, “Đạo hiếu” (H: 孝道, A: The duty of filial piety, P: Le devoir de la piété filiale) hay “Hiếu thân” (H: 孝親, A: The filial piety, P: La piété filiale), là “Hiếu hậu vi tiên” 孝厚為先, “Hiếu đức trung nhân” 孝德忠仁. Hết lòng hiếu thảo với cha mẹ phải làm trước hết và ông cha ta rất coi trọng chữ hiếu coi đó là nền tảng của trật tự xã hội, cách ứng xử của mọi người. Một gia đình có con hiếu, cháu hiền 孝子賢孫 là gia đình hạnh phúc, hưng long; đạt Tam đa (H: 三多, A: Three abundances, P: Trois abondances) cả Phúc , Lộc 祿, Thọ
Người ta, ai cũng được mẹ cha sinh ra, nuôi dưỡng, dạy dỗ. Kinh Thi có câu: 父兮生我, 母兮鞠我, 哀哀父母生我劬勞, 欲報深恩, 昊天罔極 nghĩa là: Cha thì sinh ta, mẹ thì nuôi ta, thương thay cha mẹ sinh ta nuôi dưỡng khó nhọc, muốn báo ơn sâu, ơn đức của cha mẹ mênh mông như bầu Trời bằng “Chín chữ cù lao劬勞九字, tức là chín điều khó nhọc khi sinh dưỡng con cái[2]. Trong Phật giáo còn nói đến Tứ ân (H: 四恩, A: The four favours, P: Les quatre faveurs), trong đó có “ơn cha mẹ”. Do vậy phải báo đáp bằng sự cung kính, vâng lời, phụng dưỡng để cha mẹ vui; khi cha mẹ mất thì phải lo tang lễ chu đáo, phải thờ cúng và cầu cho cha mẹ mau siêu thăng tịnh độ 超升淨土 về miền cực lạc (H: 極樂涅槃, A: Nirvana, P: Nirvana) nơi Niết bàn.
Mỗi việc như vậy đều cần được tiến hành chu đáo, có trật tự theo Nghi thức (H: 儀式, A: The protocol, P: Le protocole) chuẩn mực. Thời cổ, Chu Công 周公[3]  soạn sách Chu lễ  周禮, Nghi lễ 儀禮ghi lại các qui định hoạt động xã hội vào thời nhà Chu (周朝, 1122 –249 tCn). Sách này cùng với Lễ ký  禮記 do học trò Đức Khổng Tử chép lại lời thầy dạy về Lễ, Nhạc cùng với gọi là Tam Lễ 三澧[4] bàn về các chi tiết và ý nghĩa của lễ Quan (lễ trưởng thành), Hôn (lễ cưới), Tang (lễ tang) và Tế (cúng bái).
Lịch sử đã chứng minh rằng: trên cơ sở nền văn hoá Đông Sơn (mang tên địa điểm phát hiện di chỉ ở Thanh Hóa)[5], nhu cầu trị thủy và đấu tranh chống xâm lăng đã hình thành nhà nước sơ khai Văn Lang 文郎 đầu tiên của người Việt đóng đô ở Phong Châu và nền văn minh lúa nước, văn hóa làng xã trở thành cốt lõi văn hóa Việt. Ban đầu, trong đời sống tâm linh, người Việt cổ có tục thờ đa thần của văn hóa bản địa sau lại tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa Ân Độ[6], đặc biệt là văn hóa Hoa Hạ nên nước ta là nước đa tôn giáo. Từ thế kỷ X trong xã hội xuất hiện hiện tượng Tam giáo đồng nguyên (H: 三敎同原, A: Three religions was originated from the same source, P: Trois religions sont provenues de même source), là: Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo[7] nên người Việt có khá nhiều tục lệ. Tuy có những giai đoạn thăng trầm khác nhau nhưng Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc và trên nền tảng tư tưởng của Phật giáo, chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bản địa, nhiều nghi lễ là sự kết hợp giữa Phật giáo nguyên thủy và truyền thống dân tộc. Do vậy các nghi thức việc Hiếu cũng ảnh hưởng của Phật giáo. Trong đó có tục về việc tổ chức Mừng Thọ, Tang lễ và Cúng giỗ cha mẹ sao cho trọn vẹn. Việc này tồn tại từ bao đời; những yếu tố ngoại nhập hòa trộn với văn hóa bản địa đã trở thành “Lễ nghi phong hóa” (H: 禮儀風化, A: Ceremonies and manners, P: Cérémonies et moeurs) tức là cách thức bày ra trong khi tiến hành sao cho được trật tự, trang nghiêm, kính cẩn.
Thời Bắc thuộc đã đành, thời tự chủ chúng ta cũng chưa có mấy sách viết về nghi lễ. Nhưng sách của Bắc quốc với nhiều quy chế cổ trong Tam lễ đã dẫn ở trên phức tạp, khó thực hiện; gây phiền nhiễu nên dân chúng thực hiện tùy hoàn cảnh và thiếu thống nhất ngay trong từng gia đình, làng xã. Trong khi triều đình lại muốn chuẩn hóa quy chế  các nghi lễ theo quan điểm của Nho giáo (H: 儒敎, A: Confucianism, P: Confucianisme) nên một số nhà nho biên soạn ra sách “Gia lễ” để áp dụng, như:  Thượng thư Gia lễ 家禮của Đông các Học sĩ 東閣學士Thượng thư 尚書Duệ Quận công 睿郡公Hồ Sĩ Dương (胡嘉杨, 1621 - 1681)[8]Gia lễ tiệp kính của Ngô Doãn hay Thanh thuận Gia lễ[9] của Bảng nhãn Thượng thư bộ Công 工部 尚書Lê Quý Đôn (黎貴惇, 1726 - 1784)[10],... nhưng vẫn chưa thống nhất và còn khó hiểu, khó áp dụng bởi ít được “Việt hóa”. Trước tình hình ấy, Thọ Mai cư sĩ 壽梅居士Hồ Sĩ Tân 胡嘉賓[11] đã biên soạn cuốn Thọ mai Gia lễ 壽梅家禮[12]. Sách này chú ý tham khảo, vận dụng Chu lễ và Gia lễ của tiền nhân nên có tiến bộ so với các tập sách trước nó, dễ hiểu, gần gũi với phong tục tập quán hơn nên nó nhanh chóng được dân gian tiếp nhận và lưu truyền. Nhưng Thọ Mai gia lễ từng bị Phạm Đình Hổ (范廷琥, 1768-1839)[13] đả kích kịch liệt vì cho rằng đã đưa ra những cách thức lạ kỳ, quê kệch...Song trong dân gian vẫn lưu truyền và dưới triều Nguyễn, Thọ Mai Gia lễ được sử dụng như là luật lệ về tang ma.
Thời cận đại, có Phan Kế Bính[14], năm 1915 soạn ra cuốn Việt Nam phong tục nghiên cứu nghiêm túc, có tính phản biện về thuần phong mỹ tục của Việt Nam[15].
Những năm 1945-1975, tất cả tiềm lực, tinh hoa đều dồn sức cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc, đấu tranh giải phóng, thống nhất đất nước; cuộc sống gian khó nên có thời gian “việc Hiếu” bị hiểu lầm và sao nhãng. Đã một thời chúng ta ngộ nhận đó là “tàn dư” của phong kiến, cần phải “đào tận gốc, trốc tận rễ”; rất ít bài báo, sách viết về chủ đề này. Hậu quả để lại là “khoảng trống Bạch cầu” trên nhiều mặt.
Từ sau khi tiến hành công cuộc đổi mới (1986), mọi mặt KT-CT-XH nước ta đều phát triển theo chiều hướng tích cực thì việc Hiếu mới được khơi dậy và ngày càng được quan tâm hơn. Nhiều vấn đề dần được “luật hóa”. Trách nhiệm con cái với cha mẹ, ông bà được đề cập ngay từ đạo luật hôn nhân và gia đình đầu tiên của nước ta là Luật hôn nhân gia đình được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Khóa I, kỳ họp thứ 11 thông qua trong phiên họp ngày 29/12/1959 và hiện nay là Luật hôn nhân gia đình được Quốc hội nước Cùng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 09/6/2000. Việc Chúc thọ, Mừng thọ người cao tuổi quy định trong Luật Người cao tuổi được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá XII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 23/11/2009 (thay thế Pháp lệnh Người cao tuổi số 23/2000/PL-UBTVQH10) và các văn bản hướng dẫn kèm theo. Về tang lễ có Nghị định Số: 105/2012/NĐ-CP ngày 17/12/2012 của Chính phủ Về tổ chức lễ tang cán bộ, công chức, viên chức. Mới đây, thực hiện Chỉ thị 27-CT/TW của Bộ Chính trị và Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 21/01/2011 Bộ VH-TT&DL đã ban hành Thông tư 04/2011/TT-BVHTTDL quy định về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội...     
Nhưng dân ta vốn nặng tư tưởng lệ cổ nên cái mới chưa thành nếp. Trong số những lệ tục xưa, theo thời gian và do thời cuộc, có cái nay đã đi vào quên lãng, không còn phù hợp. Tất nhiên những lệ đã trở thành “Thuần phong mỹ tục” thì vẫn được duy trì cho phù hợp hơn. Đáng tiếc, do mặt trái của cơ chế thị trường, do điều kiện kinh tế phát triển nhưng một số mặt VHXH lại có biểu hiện không theo kịp nên xuất hiện nhiều lệ mới kiểu “Phú quý sinh lễ nghĩa” mà không phú quý cũng đua đòi, nhân danh “Thọ Mai Gia Lễ” phục hồi làm biến dạng nhiều tục cũ. Đặc biệt gần đây xuất hiện khá nhiều sách, tài liệu đều nói là dựa theo truyền thống có cải biên nhưng xem ra chỉ là sao chép lẫn nhau[16] và nhiều chỗ rất lạc hậu, sai lầm ngớ ngẩn.
Mỗi hoạt động tâm linh trong việc Hiếu thường nhiều nghi lễ, tập tục nhưng đa phần khi thực hiện chỉ là “làm theo” mà không hiểu vì sao cần làm như thế nên dẫn tới bị thô lược hay lạm dụng, hoặc làm sai lệch, không còn ý nghĩa gì. Từng dự, tổ chức và được nhờ “cố vấn” nhiều đám Cưới hỏi, Chúc thọ, Mừng lên chức, Cúng giỗ, đưa tang...tôi thấy bên cạnh những cái hay, cái được mà mình thấy đúng nghi lễ đã biết; cái mới, cái lạ cần học, tiếp thu tôi còn thấy nhiều việc làm trái khoáy, chướng mắt, tốn kém, phiền hà mà hỏi ra thì chả ai rõ ngọn ngành, trả lời vu vơ hoặc rất chi là phản khoa học, phản cả tâm linh. Tât cả do thiếu hiểu biết, thiếu tri thức mà ra!
Theo tôi, người có tâm, có tri thức, có bản lĩnh không hành động a dua theo đám đông, hầu tránh gánh nặng không đáng có; tránh những tín điều lầm lạc, ngu muội. Trước mỗi lễ nghi, phong tục, tập quán ta cần có ý thức tìm hiểu nguyên nhân sâu xa để rõ ý nghĩa tâm linh, cơ sở khoa học, thực tiễn của hành vi cần phải thực hiện. Điều đó vừa giữ được truyền thống của ông cha, của “nếp nhà” vừa là một hành vi văn hóa, khiến cuộc sống thêm thi vị đúng với nghĩa cuộc sống của con người.
Chắt lọc tinh hoa của tiền nhân, dựa vào các văn bản quy phạm hiện hành và qua thực tế, tôi chọn lựa những nội dung cần thiết có phân tích, lược bỏ những điều rõ là lỗi thời, thêm những lệ tục mới đẹp, phù hợp đảm bảo tính dân tộc, lại có nội dung Văn hóa mới biên soạn lại. Mục đích để nhớ và phổ biến, thực hiện trong gia tộc, bạn bè thân hữu nhằm “Gia sự hà tất vấn ngoại nhân” 家事何必問外人 mà có hỏi thì cũng có cơ sở cân nhắc, xem xét trước khi áp dụng. Tất cả có 5 phần:
Phần 1:  VIỆC HIẾU VÀ CƠ SỞ TRIẾT HỌC, TÂM LINH CỦA VIỆC HIẾU
Phần 2:  THỌ VÀ VIỆC CHÚC THỌ
Phần 3:  KHI NGƯỜI THÂN MẤT VÀ TANG LỄ
Phần 4: VIỆC CÚNG GIỖ  CHA, MẸ, ÔNG, BÀ, NGƯỜI THÂN
Phần 5: MỘT SỐ BÀI KHẤN TẾ, ĐIẾU, THƠ ĐÃ SOẠN
Mỗi phần nhiều nội dung, gồm cả quan niệm xưa, cơ sở tâm linh, triết học cổ của nó; việc thực thi trong cuộc sống đã gặp; các quy định hiện hành và nhận xét, quan điểm của bản thân[17]. Do vậy nó gần như cuốn Từ điển (H詞典, A: The dictionary, P: Le dictionnaire) hay Cẩm nang (H: 錦囊, A: Tips, P: Conseils) cho người không mấy am tường lễ tục thực thi việc báo hiếu, đặc biệt là trong Mừng Thọ, Tang lễ, Thờ cúng...Nhằm soạn riêng cho bản thân và gia tộc, không phải là “công trình nghiên cứu” theo đơn đặt hàng, lấy tiếng hay tư lợi gì nên không ghi chú nguồn tham khảo cụ thể theo đúng chế độ “bản quyền” của Công ước Bơn (Berne Convention, 伯尔尼公约) về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật được ký tại Bern (Thụy Sĩ) năm 1886. Những chữ nước ngoài (nhiều nhất là Hán tự) tôi copy rồi paste vào hoặc gõ trực tiếp để ôn, nhớ, tiện tra cứu (chứ không phải vì “sính ngoại”) và không ảnh hưởng đến nội dung với người đọc không biết ngoại ngữ.
Tâm nguyện thế nhưng chắc còn nhiều điều chưa biết hết hay chưa thể đề cập được. Mong những ai quan tâm, có hiểu biết và có tâm đọc được trang này góp ý bổ sung, chỉ giáo thêm về ý tưởng, nội dung cũng như tư liệu.
Xin chân thành cảm ơn.
-Tháng 7/2014, Lương Đức Mến-



[1] Tất nhiên, khi con người bị tầm thường hóa bởi những khát vọng vật  chất, bởi sự bon chen, giành giật hoặc cầu xin khẩn khoản tệ hơn là tranh đoạt thô bạo thì cái tín ngưỡng ấy không đáng để tôn vinh.
[2] Chín chữ cù lao gồm: - SINH (, mang thai, đẻ ra) - CÚC (, Nuôi dưỡng, chăm nom cả vật chất lẫn tinh thần) - PHỦ (, Âu yếm, nâng niu, vuốt ve) - SÚC (, Cho bú mớm, bón cháo cơm) - TRƯỞNG (, nuôi cho đến khôn lớn) - DỤC (, Dạy dỗ, tập tành) - CỐ (, Chăm nom, thương nhớ, đoái hoài) - PHỤC ( , Uốn nắn, dạy dỗ) - PHÚC (, Ẵm vào lòng, giữ gìn, đùm bọc, che chở).
[3] Tên thật là Cơ Đán, là công thần khai quốc nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công giúp Chu Vũ Vương (Cơ Phát) lập ra nhà Chu (1122 - 256 trước Công nguyên), giành quyền thống trị Trung Hoa từ tay nhà Thương.
[4] Chu lễ 周禮/周礼 còn gọi là Chu quan 周官 hoặc Chu quan kinh 周官经, là tên gọi của bộ sách xuất hiện vào thời Chiến Quốc ghi chép về chế độ quan lại cùng những tập tục lễ nghi của đời Chu, có thể coi là một lý tưởng về chế độ chính trị và chức trách của bách quan.
[5] Là một nền văn hóa cổ ở Thời đại đồ sắt, từng tồn tại ở một số tỉnh miền bắc Việt Nam và bắc trung bộ Việt Nam (700 tCn - 100)
[6] Nền văn minh Ấn Độ thời cổ đại (còn được gọi là Văn hóa Harappa, 3.000-1.800 tCn) là một nền văn minh nổi tiếng bao gồm cả vùng đất ở các nước như: Ấn Độ, Pakistan, Nêpan, Bangladesh ngày nay. Nền văn minh này sản sinh ra chữ Ấn cổ, chữ Brami, chữ Sanskrit (là cơ sở của nhiều loại chữ viết ở Ấn Độ và Đông Nam Á sau này) và sản sinh ra nhiều tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo, đạo Jaina và đạo Sikh.
[7] Trong một phạm vị lịch sử  nhất định, Tam giáo có tạm thời thay thế nhau giữ vai trò hàng đầu, trở thành Quốc giáo nhưng trong đời sống xã hội và sinh hoạt tâm linh, tình cảm, Tam giáo vẫn là ba mà một (Trinity)  ảnh hưởng nếp ăn ở  tư duy của cộng đồng người Việt, hòa điệu với tập tục, bản sắc riêng của văn hóa bản địa VN. Cái vạc ba chân là cái thế  vững chắc cho tâm hồn, đỡ nâng và dẫn dắt cuộc sống trong các mối quan hệ  ràng buộc cá nhân - gia đình - xã hội - quốc gia.
[8] Hồ Sĩ Dương là quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Ông là cháu xa của Trạng nguyên Hồ Tông Thốc 胡宗簇.
[9] Hai cuốn Gia lễ này tôi chưa được biết, chỉ được đọc trong sách của Hoàng Công Tuấn..
[10] tên thuở nhỏ là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu (允厚), hiệu Quế Đường; làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam; nay thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Đỗ Bảng nhãn khóa thi Nhâm Thân, 1752, được bổ làm Thị thư ở Viện Hàn Lâm dần lên đến  Thượng thư bộ Công. .là quan thời Lê trung hưng, là nhà thơ, và là "bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến". Ông là tác giả nhiều: Các sách bàn giảng về kinh, truyện; Các sách khảo cứu về cổ thư; Các sách sưu tập thi văn; sách khảo về sử ký địa lý đến nay còn giá trị và nhiều tập thơ văn.
[11] Hồ Sĩ Tân (1691-1760) là con trai thứ hai Tham nhị Hồ Sĩ Tông (con ruột Duệ Quận Công Hồ Sĩ Dương). Năm Gíap Ngọ, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ mười (1714), Sĩ Tân dự thi Hương đậu ngay Giám sinh (Cử nhân); năm ất Mùi (1715) thi Hội đậu Phó bảng. Mùa xuân Nhâm Dần niên hiệu Bảo Thái thứ ba (1722) đời Lê Dụ Tông, Sĩ Tân dự thi Đình đậu Tiến sĩ. Bước đầu Sĩ Tân nhận chức Công khoa Cấp sự trung, sau được bổ nhiệm chức Gíam sát Ngự sứ đạo Quảng Yên, rồi thăng Hiến Sát sứ tỉnh Thanh Hóa. Trong khi làm quan ông thường bênh vực người nghèo khó và kẻ thất thế, thẳng tay trừng trị bọn tham quan ô lại , nên không được cấp trên mến phục, lại bị đồng sự chèn ép, ông xin về hưu .
[12] Trước đây  do viết và in bởi Hán tự nên sách ít phổ biến, mọi người chỉ truyền khẩu nên dễ tam sao thất bản. Ngay như tôi mãi năm 2001 mới kiếm được cuốn dạng Photocoppy mà sau này kiểm lại thấy nó không đúng về bố cục, chi tiết so với bản có trên mạng và được giới thiệu là dịch năm 1927.
[13]  Tên chữ là Tùng Niên 松年, Bỉnh Trực 秉直, hiệu: Đông Dã Tiều 東野樵, tục gọi là Chiêu Hổ; người làng Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ông là nhà nghiên cứu văn hóa, nhà văn và nhà thơ của Việt Nam ở khoảng cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Tế tửu Quốc Tử Giám Thị giảng học sĩ. Và nhờ đọc nhiều, đi nhiều, ông đã để lại nhiều công trình khảo cứu, biên soạn có giá trị thuôc đủ mọi lĩnh vực: văn học, triết học, lịch sử, địa lý,... Đồng thời sáng tác nhiều tập ký, thơ có giá trị. Đặc biệt là Vũ trung tùy bút (雨中隨筆, Tùy bút trong mưa) là một tập truyện bằng chữ Hán, theo thể loại ký nổi tiếng tại Việt Nam.
[14] Phan Kế Bính (1875 – 1921), quê ở làng Thụy Khê, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phố Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội), hiệu là Bưu Văn, bút hiệu Liên Hồ Tử, là một nhà báo, nhà văn nổi tiếng  hồi đó.
[15] Khi tiếp xúc với văn minh Phương Tây ông nhận ra: Kinh tế thay đổi thì phong tục phải thay đổi nên đã viết nhiều bài ngắn đăng từng kỳ trên Đông Dương Tạp Chí, vào năm 1913 – 1914. Sau đó tập hợp thành sách “Việt Nam phong tục. Cuốn này năm 2005 tôi mới mua được. Xem kỹ thì ra, chính trong cuốn sách này ông cũng chỉ ra những điều giả dối, phiền phức lố bịch trong nghi thức tang ma đương thời.
[16] Bản thân tôi từng đi mua sách vớ phải những nội dung sai của...chính mình! Ví dụ cuốn “Tìm hiểu văn hóa tâm linh của người Việt” tác giả GsTs Cao Ngọc Lân, NCS Cao Vũ Minh-NXB Lao động xuất bản 2013 tại T38, 39, 40, 41 (Đôi điều về Bát hương) giống hệt (có đổi vài chữ nhưng phần mang tính “duy tâm” tôi nghe thầy tôi truyền lại vẫn giữ nguyên!) bài tôi đăng từ 02/02/2011 ở:  http://holuongduclaocai.blogspot.com/2011/02/bat-huong-viec-boc-bat-huong-va-su-dung.html. Hay các ảnh minh họa, bảng tôi tự thiết kế và ngày 10/02/2011 đưa lên tại http://holuongduclaocai.blogspot.com/2011/02/so-o-cam-nen-mau-va-chu-viet-tren-bai.html đã được 2 tác giả trên ưu ái sao lại ở T 180, 181 (chắc cóp sau khi tôi sửa ngày 14/02/2011) mà lẽ ra bảng chỉ gõ trực tiếp cũng được!
[17] Là người 40 năm trong LLVT, học Đại học trong Quân đội, công tác trong Công an, là Bác sĩ lãnh đạo đơn vị thực hiện công tác khoa học kỹ thuật trong CAND tất nhiên là tôi không mê tín. Nhưng tôi có niềm tin, tin vào tâm linh. Đồng thời tuy không theo tôn giáo nào, những ảnh hưởng của gia đình và quê hương nên trong tâm tưởng có cái nhìn qua lăng kính một “Thiện nam tín nữ” (H: 善男信女, A: The believers, P: Les croyants) của Đạo Phật.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!