Theo truyền ngôn và dựa vào chính sử thì: Vào thế kỷ XVI cũng tránh họa truy diệt thời nội chiến Lê
– Mạc (南北朝, 1533-1592),
một hậu duệ của Bảng nhãn Lương Đắc Bằng (梁得朋, 1472 - 1522) là Lương Đắc Cam 梁得甘 từ Hội Triều xứ Thanh ra Bắc và được Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (阮秉謙, 1491 - 1585) giúp đưa đến
sinh cư tại làng Lao Chữ 牢渚, tổng Dương Áo 陽襖,huyện Tân Minh 新明 (sau cải Tiên Minh 先明), phủ Nam Sách 南策, trấn Hải Dương 海陽 (nay là xã Hùng Thắng huyện Tiên Lãng, tf Hải Phòng). Từ đó lập nên dòng họ Lương Lao Chữ 梁牢渚 mà khởi đầu
là cụ Lương Đắc Cam 梁贵公諱甘字三郎. Đây là gốc khởi thủy của hầu hết các
dòng họ Lương Tiên Lãng trong đó có phái họ Lương Đăng Lai 梁登來,họ Lương Thái Lai 梁泰來,họ Lương Quan Bồ
梁關蒲 ở tổng Kinh Lương 涇涼.Nhưng Cụ Bảng nhãn chỉ có 1 con trai là Lương Hữu Khánh (梁有慶,1517 – 1590), 1 cháu là Lương Khiêm Hanh (sinh năm 1563) do vậy mối liên hệ giữa Lương Đắc Cam và Lương Đắc Bằng
tôi truy tìm mãi chưa ra.
Có người gợi ý: Họ
Lương vùng Tiên Lãng là hậu duệ của Trạng nguyên Lương Thế Vinh chứ không phải
của Bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Đi theo hướng này, tôi thấy có những tư liệu sau:
Lương Thế Vinh (梁世榮,
1441–1496) người thôn Cao
Hương 高香, huyện Thiên Bản
天本, trấn Sơn Nam Hạ
山南下鎭 (nay thuộc xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh
Nam Định) đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất
danh (第一甲進士及第第一名, Trạng nguyên) khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận thứ 4 (1463) làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị
giảng 翰 林 院侍 講 Chưởng viện sự 掌 院事, Nhập thị Kinh diên 入 侍 經 筳, Tri Sùng văn quán 知崇文館.
Theo Gia phả họ Lương Cao Phương và gia phả họ Lương Tam chi
(do cụ Lương Ngọc Châu soạn năm 1943 có sửa
chữa và bổ sung bởi ông Hoàng Đình Khảm) thì: Trạng nguyên sinh 2 con trai:
trưởng là Lương Trinh Túc (Lương Thế Hạo)
làm Hiến sát phó sứ ty Hiến sát 憲 察 使 副司châu Ái (愛州, tỉnh
Thanh Hoá ngày nay); thứ là Lương Thế Khôi làm Đô đốc 都督 Châu Hoan (驩州, tức
vùng Nghệ Tĩnh ngày nay). Năm Hồng Thuận thứ bảy (洪順七年, 1515)[1]
đời Lê Tương Dực (黎襄翼, 1495 – 1516), Hiến sát Sứ 憲察使 châu Ái (nay là tỉnh Thanh Hóa) Lương Thế Hạo được cử làm Chinh tây Đô đốc Đại
tướng quân 征西都督大將軍 cùng với Chinh
Tây phó tướng quân 征西副 將軍 là em ruột mình Lương Thế Khôi hợp binh
đánh giặc[2].
Sau tám chín trận thắng liên tiếp, Thế Hạo tiến vào sào huyệt giặc mở tiệc khao binh. Bất ngờ quân giặc
quay lại cùng viện binh bao vây bốn mặt, Chính tướng lệnh cho Thế Khôi vượt vây
về triều xin binh cứu viện.
Trong vòng vây của
giặc hơn một tháng, không thấy viện binh, Thế Hạo phá vây. Khi thoát về đến mé
đông thành Hạnh Lâm thấy Thế Khôi đang chuẩn bị đón mừng, trong lúc nóng lòng,
Chính tướng tưởng Phó tướng “ham mê tửu sắc, bỏ việc quốc gia, quên tình cốt nhục”
nên khép vào quân lệnh, đuổi giết ném xác xuống sông[3].
Thi hài ông trôi về huyệt Hàm Rồng ở Triều Khẩu, thuộc địa phận làng Báo Long (nay là làng Ngọc Long ở gần Hội Triều).
Khi đó, Đô đốc đã có 4 người con: Thế Kỳ, Thế Phụ, Thế Dực (con bà cả) và Thế Khải (con bà hai). Người con trai út của ngài
do bà vợ thứ sinh ra tên là Lương Thế Khải năm đó 17 tuổi, đi tìm thi hài cha,
đến Triều Khẩu thì nhận được dấu tích và thấy mối đã đùn đất thành ngôi mộ lớn.
Nhân thấy nơi đó, gần làng Hội Triều là quê hương của Lương Đắc Bằng (梁得朋, 1472 – 1516), vốn là chỗ thân tình lâu đời của gia tộc
nên Thế Khải cùng mẹ quyết định ở lại Hội Triều thờ phụng hương khói cho Đô Đốc
và làm chỗ nương náu. Từ đó hình thành họ Lương Tam Chi tại đây.
Còn các người con của bà chính thất là Lương Thế Kỳ, Lương
Thế Phụ, Lương Thế Dực thì lưu tán nơi nào không rõ tung tích. Đây có thể là
Thuỷ tổ của dòng họ Lương ở Phượng Ngô (nay
thuộc xã Hoằng Lưu, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa) và họ Lương nhiều vùng
khác buộc phải che dâu gốc gác tránh hoạ tru diệt[4].
Khi Đô đốc Thế Khôi bị nạn thì Bảng nhãn Lương Đắc Bằng vẫn còn[5].
Do mối thân tộc, có thể con cháu Đô đốc đã nương nhờ Bảng nhãn. Để bảo vệ giọt
máu của Lương Thế Khôi, Cụ đã nhận con cháu Lương Thế Khôi làm con cháu mình và
từ Lương Thế những người này chuyển qua Lương Đắc mà đời sau không rõ hay cố
tình lờ đi. Do vậy có thể Lương Đắc Cam là hậu
duệ của Lương Thế Vinh nhưng lại ngộ nhận là hậu duệ của Lương Đắc Bằng.
Dù sao đây cũng chỉ là giả thuyết! Rất mong được quan viên họ và những người quan tâm, có tư liệu cung cấp, bổ sung, sửa chữa dần hoàn chỉnh việc “Đi tìm Cội
nguồn dòng họ”.
[2] Đại Việt Sử ký toàn thu chép: Năm Hồng Thuận năm thứ 7
(Ất Hợi, 1515): “bắt các trấn nộp thuyền gỗ để đi đánh Ai Lao” chứ không có
việc đánh Chiêm Thành như Phả chép.
[3] Đây là thời nhà Lê Sơ (1428-1527) suy tàn, Mạc
Đăng Dung (莫登庸,
1483-1541) lăm le cướp ngôi, đã dùng
kế “Tá đao sát nhân” (借刀杀人, mượn dao giết
người) sát hại trung thần. Từ việc để
Lương Thế Hạo giết Đô đốc Lương Thế Khôi, rồi giặc giết Lương Thế Hạo (1515),
Trịnh Duy Sản giết vua Lê Tương Dực lập vua Lê Chiêu Tông (1516), Lê
Chiêu Tông giết Đô ngự sử Đỗ Nhân (1517), dọn đường cho mười năm
sau bước lên ngai vàng, lập ra nhà Mạc (莫朝, 1527-1592) .
[4] Mãi đến thời Lê Trung Hưng (1533–1789), vào năm 1600, sau
khi diệt xong nhà Mạc (1592), Lê Kính Tông (黎敬宗, 1588 – 1619) mới minh oan cho Đô đốc và có sắc
phong “Thượng Đẳng Phúc Thần”.
[5] Có tài liệu viết 1477-1526, tức cụ mất
năm Bính Tuất, 1526 đời Lê Cung Hoàng vào dịp Trần Cảo đã kéo quân uy hiếp kinh
thành. Còn theo nhận xét của tôi trong chuyên luận này thì Cụ sinh sinh năm
1472, thọ hơn 50 tuổi nên mất năm Bính
Tý 1516 hay Bính Tuất 1526 hoặc khoảng giữa 2 mốc đó!
Bản Phú úy 賦諱 họ Lương Hùng Thắng-Vinh Quang viết: “始祖高高枝祖考梁贵公字三郎諱 甘忌八月十五日” (Thủy tổ Cao Cao Chi Tổ khảo Lương quý công tự Tam Lang húy Cam) có thể hiểu cụ là con trai thứ ba và tên là Cam.
Trả lờiXóaLương Thế Dực là thứ ba của Lương Thế Khôi, lại trùng tên với vua Lê Tương Dực (1510- 1516) nên phải chăng được đổi ra Lương Đắc Cam theo phép Kị huý và tránh được hoạ tru diệt.