Cách đây chục
năm ít người biết đến ngày “Tam trùng” nhưng những ngày tam trùng vài năm trở
lại đây (08/08/2008, 09/9/2009,
10/10/2010 và 11/11/2011) rất được nhiều người quan tâm cho đó là ngày may
mắn! .
Nhân giải lao
sau những buổi họp cuối năm, thử thư giãn bằng việc tìm hiểu về ngày này, thấy
cũng hay hay và nhớ thêm về cách tính lịch.
Nếu viết số
chỉ ngày, tháng nhỏ hơn 10 có số 0 đằng trước thì ngày tam trùng 三重 là ngày mà có hai chữ số chỉ
ngày, tháng được lặp lại trong hai chữ số cuối chỉ năm (trừ 12 năm đầu Công nguyên là chính chữ số chỉ năm). Bởi chữ số chỉ
tháng lớn nhất là 12 nên mỗi thế kỷ chỉ có 12 ngày tam trùng ở các năm xy01,
xy02, xy03, xy04, xy05, xy06, xy07, xy08, xy09, xy10, xy11 và xy 12, năm xy00
không có tam trùng. Ngày tam trùng đầu tiên trong Công nguyên là thứ Bảy ngày
01/01/01 còn ngày đầu tiên của thế kỷ XXI này có tam trùng là thứ Sáu ngày
01/01/2001, cách hôm nay 4.363 ngày.
Năm nay, ngày đó là ngày 12/12/2012, ngày
thứ 347 trong năm (tháng 2 có 29 ngày)
trong lịch Gregory[1]
公历/ 阳曆 và còn 19 ngày
là hết năm. Với ngày Julius[2] nó là ngày: 2456274, theo
cách chia Tuần[3]
nó là thứ Tư[4].
Năm nay là năm cuối cùng trong thế kỷ này có ngày tam trùng bởi từ 2013 đến
2100 không có năm nào mà hai chữ số cuối chỉ năm có tương ứng với số chỉ tháng
nữa, phải đợi sang thế kỷ XXII, còn 32.161 ngày nữa đến ngày 01/01/2101 mới lại
tam trùng!
Theo Âm lịch 陰陽曆 là ngày 29 tháng Mười. Nó có Bát
tự: ngày Đinh Mùi (丁未,Thiên hà Thủy), tháng Tân Hợi (辛亥,Thoa xuyến Kim), năm Nhâm
Thìn (壬辰,Trường lưu Thủy). Ngày này nạp âm, hợp, xung, khắc, kị, việc nên làm, không nên làm, giờ tốt, xấu theo quan niệm phương Đông được Thiên Y thực hiện bằng
Javascript[5].
Theo đó ngày
này kị Tân Sửu, Kỷ Sửu; xung Sửu, hại Tý, tuyệt Sửu, sát Thân, Tý, Thìn. Hợp Kỷ Sửu, Đinh Dậu, Kỷ Mùi; lục hợp Ngọ; tuy có các Cát thần (Nguyệt Đức Hợp,
Thần Tại, Tuế Đức Hợp, Yếu Yên) nhưng lại lắm Hung thần (Bát Chuyên, Câu Trần, Khươc Sát, Long Hội, Lâm Cách, Nguyệt Hư, Nguyệt
Hại, Nguyệt Hỏa, Nguyệt Sát, Phục Nhật, Phục Tang, Tứ Hư, Đại Không Vong, Độc
Hỏa).
Do vậy với
Dương lịch, ngày 12/12/2012 là ngày tam trùng, đẹp theo kiểu số 12 được lặp lại tạo dãy chữ số: 12/12/12. Nhưng
với Âm lịch, ngày 29/10 lại là ngày không thuận lợi để tiến hành làm những việc đại hỷ như cưới hỏi. Hơn nữa nó lại là ngày cuối
cùng của tháng âm nên chả mấy ai chọn!. Còn việc khai trương lại tốt, nên tiến hành vào các giờ Hoàng đạo là: Dần (3:00-4:59), Mão (5:00-6:59),
Tỵ (9:00-10:59), Thân (15:00-16:59), Tuất (19:00-20:59), Hợi (21:00-22:59)
và nhớ rằng giờ đầu của ngày hôm nay là giờ Canh Tý (23:00 ngày hôm trước-0:59).
Do vậy, rõ
ràng việc chọn ngày là do “tâm lý đám đông”, nhưng mấy ai dám bỏ! Chép lại để
nhớ chứ “Lịch đặt ra sao cầu được Phúc”!.
[1] Là một bộ lịch mới do Giáo hoàng
Grêgôriô XIII 額我略十三世 (Gregorius XIII, 1502-1585) đưa ra vào năm 1582. Lịch Gregory chia
thành 12 tháng với 365 ngày, cứ 4 năm thì thêm một ngày vào cuối tháng 2 tạo
thành năm nhuận. Lịch này thay thế lịch Julius 儒略曆 được Julius Caesar 恺撒 (100 - 44 tCn) giới thiệu năm 46 tCn và
có hiệu lực từ năm 45 tCn.
[2] Ngày Julius được đánh dấu bằng số ngày và phần
thập phân của ngày đếm liên tục từ 12 g Greenwich (UT) thứ hai, ngày 1 tháng 1 năm 4713 trước Công
nguyên trong lịch Julius đón trước. Ngày julius kí hiệu là JD (Julian Day), đôi
khi để ám chỉ thang thời gian lịch người ta còn sử dụng kí hiệu là JDE (Julian
Ephemeris Day). Trong các phép tính thiên văn hay lịch pháp người ta sử dụng
đơn vị gian nữa là thế kỷ Julius (100 năm Julius) bằng 36525 ngày.
Ngày Julius giúp chúng ta
tính nhanh được số ngày trôi qua giữa hai thời điểm nào đó và có vai trò đặc
biệt trong tính toán lịch, việc chuyển đổi giữa các loại lịch ( như từ lịch
Dương sang lịch Âm dương hoặc ngược lại) thực hiện qua tham số trung gian là
Ngày Julius sẽ đơn giản hơn dễ dàng hơn là chuyển đổi trực tiếp.
Mốc
4712 tCn xuất phát từ chu kỳ Julius (7980
năm Julius) do học gỉa người Pháp tên là Joseph Scaliger đặt ra vào năm
1582, chu kỳ Julius là bội số chung nhỏ nhất của 3 số là 28, 19, 15 (7980 năm =28x15x19 năm). 28 năm được gọi
là chu kỳ Mặt trời (sau 28 năm ngày và
thứ trong tuần ở lịch Julius trở lại giá trị ban đầu), 19 năm là độ dài chu
kỳ Meton (sau mỗi chu kỳ meton Mặt trăng
có pha giống nhau vào xấp xỉ cùng một ngày) và 15 năm là chu kỳ thuế của
Lamã. Mỗi năm được Joseph Scaliger ký hiệu bằng ba số tương ứng với ba chu kỳ
trên là S (chạy từ 1 đến 28), G (từ 1 đến 19) và I (từ 1 đến 15). Ngày sinh của chúa Giê Su (do Dionysius exiguus xác định) tương ứng với (9,1,3) do đó Joseph
Scaliger chọn năm bắt đầu là (1,1,1) và năm này chính là mốc 4713 tCn.
[3] là một trong những nhóm đơn vị thời gian nhân tạo có sớm
nhất trong lịch sử, là một tập hợp các ngày do con người ấn định, chứ không
phải do sự áp đặt của những sức mạnh thiên nhiên. Nhưng không phải một tập hợp
số ngày đặc biệt nào, mà là do nhu cầu và ước muốn có một tập hợp nào đó mà
thôi. Hiện nay một Tuần lễ có 7 ngày được gắn với các hành tinh tương ứng là:
Mặt trời (Sun, Chủ nhật), Mặt trăng (Moon, thứ Hai), sao Hỏa (Mars, thứ Ba), sao Thủy (Mercury, thứ Tư), sao Mộc (Jupiter, thứ Năm), sao Kim (Venus, thứ Sáu) và sao Thổ (Saturn, thứ Bẩy).
[4] Thứ Tư Wednesday
trong một số tiếng phương Tây được lấy tên từ sao Thủy (水星, Mercury), người Hoa gọi là Tinh kỳ Tam 星期三.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!