[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


18 tháng 5 2012

Cháu con kế nghiệp mở mang

Sắp đến ngày 19/5, ngày chính kị của Nội tổ ngẫm lại từ “một gánh bên nồi bên con” vượt Văn Úc sang Cao Mật đến nay, hơn 300 năm đến nay dòng họ càng “đông đàn dài lũ”, ngoài 192 đinh quê gốc ở Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng, hậu duệ Tổ đã lan ra sống cả khắp mọi miền: Bắc-Trung-Nam,Đồng bằng-Miền núi, Thành thị-Nông thôn, trong nước-ngoài nước. Từ nghề Nông của Tổ nay con cháu làm đủ mọi nghề để sinh sống và đóng góp cho xã hội, thực hiện việc họ.

Tính từ khi Tổ sang khởi nghiệp bên bến sông Văn Úc, sinh 6 trai (Lẫm, Tuấn, Chiêu, Tú, Thiệu, Linh) và 3 gái, đến 2011 đã có đến đời thứ 11 là hậu duệ các Cụ: Tuấn, Tú, Thiệu, Linh. Ban đầu, tại Cao Mật, con cháu vẫn giữ là Lương Công đến đời thứ 3 chi 1, 2, 4 đổi thành Lương Đức 梁德, chi còn lại đổi: Lương Hoàn 梁完[1]. Cuối những năm 1980, trong Danh sách....các chi nhánh đều chép là Lương Công[2] nhưng hồ sơ cá nhân con cháu vẫn ghi theo Tổ Chi. Chiến Thắng vốn nhiều họ và tuy cùng tộc danh nhưng chưa chắc đã cùng Thuỷ tổ. Ví dụ họ Phạm có 2 dòng: dòng cụ Phạm Công Tài 范公財 ở Kim Côn, dòng cụ Phạm Đình Khanh 范廷牼 ở Cốc Tràng. Nhưng họ Lương Chiến Thắng, dù là Lương Hoàn ở Hạ hay Lương Đức ở Hương, Lộc...đều là hậu duệ cụ Lương Công Nghệ 梁公羿.

Ngoài những gia đình trong 4 Chi quần cư tại cố hương, có một số phân ngành trở lại Tiên Lãng (thế kỷ XIX) hay sang Tứ Kỳ (Hải Dương, thế kỷ XVIII) hoặc vào Nam (sau 1954 và sau 1975), sang Nam Định, Hà Tây; lên Hà Bắc, Điện Biên, Lào Cai (thế kỷ XX)...sinh sống, đã lập nên những chi phái mới nơi đây. Cùng với sự thăng trầm, biến cố của lịch sử, quê gốc Chiến Thắng và ở những nơi lập nghiệp mới luôn thay đổi cả về địa danh, địa giới cũng như sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó có những sự kiện ảnh hưởng hay quyết định đến sự tồn tại, phát triển của từng thành viên, mỗi gia đình hay sự hưng vong của một Chi, Ngành. Đồng thời những việc làm, công sức của mỗi người con, mỗi gia đình Lương tộc đã có những đóng góp nhất định cho diện mạo và sự phát triển của quê hương. Những năm gần đây, đặc biệt là sau khi xây được Từ đường, con cháu các nơi về thăm quê, viếng Tổ nhiều hơn.
Chiêm ngẫm những điều chép trong Gia phả và thực tế dòng họ cho thấy : họ Lương Cao Mật 皋密梁族 ta dẫu không thuộc “Cao môn lệnh tộc” 高門令族, không có mấy “bí truyền”, “Di ngôn”, “Di cảo” nhưng cũng xứng dòng “Tiêu biểu hương thôn”. Trong họ tuy chưa có ai được lưu danh sử sách nhưng ở một số nơi, do tỉ lệ đông, biết  khắc phục khó khăn, vươn lên học hành đạt trình độ cao so với mặt bằng chung; công tác tại thôn, xã, huyện và tỉnh và tham gia lãnh đạo các cấp nên có những việc, những vấn đề mà người họ Lương ở đây đã có vai trò quyết định hình thành nên diện mạo thôn, làng mới ấy trong mỗi thời kì, góp phần làm đổi thay quê hương, rạng danh dòng tộc. Các thế hệ sau này đều được ăn học, cố gắng phấn đấu, đạt nhiều Danh hiệu về học hành và tu dưỡng, có cháu vào Đảng ngay trong trường Đại học ở tuổi 20. Nhiều con cháu dòng họ đạt học vị Kĩ sư, Bác sĩ, Thạc sĩ; nhiều người được giao trọng trách trong các cơ quan Đảng, Chính quyền, chuyên môn ở cấp xã, huyện, tỉnh, nhiều người trở thành các sĩ quan Sơ, Trung, Cao cấp trong LLVT hay có người theo đường kinh doanh, sản xuất trở thành những Doanh nhân có uy tín. Nhiều gia đình từng được tổ dân phố, xóm làng suy tôn là “Gia đình hiếu học” hay đủ thành lập một Chi bộ. Dù ở đâu, trên cương vị gì họ đều luôn nhớ về nơi phát tích và có những đóng góp nhất định:
Cha ông mở đất xây thôn xóm 吒翁開坦立村社;
Cháu con tích học nối nghiệp nhà 宗昆積學綏業茄.
Trong bối cảnh thời loạn lạc, nhiều con cháu Lương tộc, theo gương Ngoại tổ tòng chinh dẹp giặc bỏ mình vì nước, để lại bao mồ hôi, xương máu mở đất, lập làng, giữ yên xóm bản được nhân dân thương nhớ, Nhà nứoc ghi công.
Mang sẵn dòng máu cải cách, mở mang của tiền nhân, Thuỷ Tổ ta đã rời bản quán 本貫 bên Tiên Minh (nay là huyện Tiên Lãng) sang khai cơ đất Cao Mật và từ đó nhiều gia đình lại tiếp rời quê vì mưu sinh, vì công việc đã lập ra những làng ấp mới, có khi lên tận nơi  “rừng thiêng nước độc”. Thành viên trong tộc họ nhanh chóng hoà đồng với dân cũ 舊民 để ghé vai góp sức xây nên quê mới nơi 他鄉異域 tha hương dị vực (đất khách quê người).
Trong họ tuy chưa có ai đủ mức Dương danh hiển Gia 名显家 nhưng nhiều người vì vị trí công tác, ảnh hưởng trong xã hội mà con cháu họ mạc đã được nhờ cậy. Đặc biệt không ai nợ máu, phản dân, làm tổn thương đến thanh danh dòng tộc, quê hương. Người chăm lo sản xuất, kinh doanh có của ăn, của để biết san sẻ, chu cấp cho bà con nội tộc, trong thôn, ngoài tổng, công đức cho việc họ, việc làng. Theo thời gian, họ ngày một đông ; Ngành, Chi nào cũng muốn trở nên Hoàn mĩ 完媺 hơn, gắng giữ lấy cái Nhân , cái Đức . Điều đó sẽ để lại ân đức, bài học bổ ích cho con cháu và cho cả xóm, thôn, xã, huyện…đóng góp xứng đáng vào sự hình thành, đổi mới của diện mạo quê hương, đất nước. Tạo dựng, vun đắp nên Gia phong 家风 thuộc về mọi thành viên, mọi gia đình, mọi chi phái trong Gia tộc, tất nhiên, mỗi người mỗi mức độ khác nhau.
 Ngót 300 năm qua chưa thấy nhà nào có cảnh Ngũ Đại đồng đường 五代同堂 hay Tứ Đại đồng đường 四代同堂 mà chủ yếu là các gia đình hai, ba thế hệ. Các cụ xưa ngoài vợ cả 正室 còn có thêm một hay nhiều vợ thứ 側室 để mong đông con, nhiều cháu, mạnh thế lực. Phần lớn đó là những cụ khá giả, thuộc giới chức dịch làng tổng. Thời dân chủ cũng có vài người đa mang, đèo bòng nhưng không được pháp luật thừa nhận và hầu hết đều lâm vào cảnh túng bấn, sút sa. Thế hệ nào cũng thấy có chuyện con rơi, con vãi  hay cá vào ao nhà nhưng thảy đều có lý do và chưa từng gặp cảnh loạn luân do điều trắc ẩn đó gây ra.
Không hiểu các dòng họ khác ra sao, nhưng riêng Lương tộc, cái “Đức” của người Mẹ rất quan trọng, ứng với câu “Phúc tại Mẫu 福在母 , con nhờ Đức mẹ! Những thanh nữ họ khác về làm dâu Lương tộc đều có trách nhiệm với gia đình, họ hàng, làng xóm, được mọi người ghi nhận, ngợi khen. Đồng thời những gái Lương tộc làm dâu các gia đình trong thôn, ngoaì xã cũng góp phần nhất định vào sự phát triển của các gia đình ấy. Có người nhanh nhẹn, giỏi thu vén nhưng hiếu thắng, khinh miệt chị em, “đâm thùng, tháo đáy” thì chỉ hưng thịnh tạm thời. Ngược lại có những bà thủa trẻ luôn vất vả hết lòng lo toan cho chồng con, gánh việc nhà chồng, không màng danh lợi, chú ý tích thiện, giữ nếp gia phong thì con cháu trưởng thành và bản thân cuối đời được nhờ cậy, đáp đền. Đó là bởi đã tạo ra được “Gia hòa vạn sự hưng” (家和萬事興,  Gia đình hòa thuận thì muôn việc đều thịnh) nên có “tử vinh mẫu quý” 子榮母貴, “Phúc chí tâm linh” 福至心靈. Cái Đức , sự nhẫn nhịn của người vợ, người mẹ còn giúp cho gia cảnh ấm êm, anh em hòa thuận, mọi việc hanh thông. Đó thực là những người vợ, người mẹ “Vượng phu, ích tử” 旺夫益子.
Song thực tế cho thấy “Hoa khai bất trạch bần gia địa” (花開不擇貧家地 , hoa nở chẳng lựa đất nhà nghèo) và con cái muốn trưởng thành rất cần cái uy của người cha, đúng như cổ nhân đã nói: “Mẹ đánh ba năm, không bằng cha hăm một tiếng”. Người cha (嚴父, Nghiêm đường) cổ vũ, động viên và luôn răn đe, giáo dục vợ, con. Nhưng nếu quá lạm dụng điều đó thì cũng sẽ tạo ra một hệ lụy không hay bởi “Giáo đa thành oán” (教多成怨, Dạy nhiều thành ra thù giận). Mặt khác điều may khó đến thường xuyên (Phúc vô song chí 福無雙至 hay Họa Phúc không cửa 禍福無門). Một số người, cả trai lẫn gái, dâu hay rể trót mắc sai nếu sớm biết lỗi và sám hối thì đều được họ mạc thứ tha và hậu vận cũng được tốt đẹp. Đó chính là “Giáo nhi hậu thiện” (教而後善, Nhờ nghe lời dạy bảo mà sau đó trở nên lành) do đó đã 換惡成仁 “Hoán ác thành nhân”. Nhưng trong việc này cần nhớ : “Giáo tử anh hài, Giáo phụ sơ lai” (教婦初來, 教子嬰孩: Dạy con từ thuở còn thơ, Dạy vợ từ thuở ban sơ mới về) mới có hiệu quả tốt, bền.
Máu cờ bạc đã hại nhiều người đến khuynh gia bại sản; tính gia trưởng thích lên mặt dạy người, tính ích kỉ nặng tâm lí Chi ta, Ngành lớn của trai đinh, hay tính lăng loàn, đưa chuyện, tham lam, cậy thế ngoại tộc của dâu, của gái đã dẫn đến huynh đệ tương tàn, anh em cách mặt để gương xấu cho đời sau, có lấy lại được cũng gượng gạo lắm. Đúng là: “Phúc thủy nan thu” (覆難水收, nước đổ khó hút lại). Đó còn là lỗi lầm lớn, khôn chuộc lại : “Hoạch tội ư Thiên vô sở đảo dã” (獲罪於天無所禱也, Mắc tội với Trời thì không cầu cúng vào đâu được).
Tính ưa ổn định, giữ nếp nhà, tâm lí làng xã có những điều hay, phát huy tác dụng tốt trong một số trường hợp, nhất là những ngày đầu gian khó mở đất, lập làng, trong chiến tranh bảo vệ xóm quê. Song đó lại là rào cản cho sự đột phá trong phát triển kinh tế thời xây dựng hòa bình. Cho nên nhìn chung toàn họ chẳng mấy người giầu, bứt vượt lên hẳn so với mặt bằng chung. Những người tha phương và hậu duệ Cụ Đồ Thiệu thì kinh tế và quan lộ có khá hơn chút ít.
Họ ta từ xưa đã biết và thực hiện theo lẽ sống: người có điều kiện học hành, công tác thì gắng công trau dồi, mang hiểu biết và trí thức ra giúp quê, giúp đời, vì dân, vì nước. Người kinh doanh làm nghề  có thu nhập nhiều phải nêu cao tính trung thực, hiệu quả. Người làm ruộng, làm vườn chăm chỉ, làm ăn có kế hoạch, biết tính toán. Người giầu sang không lấy thế làm kiêu mạn, người nghèo thấp không lấy đó làm điều mặc cảm hay sinh ra đạo tặc. Ai ai cũng phải nên làm việc nghĩa, việc nhân, ghi nhớ công đức tổ tiên, phấn đấu tô điểm thêm cho truyền thống gia tộc, họ hàng. Tất cả mong cho họ mãi trường tồn, phát triển, càng ngày càng có đóng góp nhiều cho quê hương, đất nước. Trong họ, tuy chưa có thành viên nào mắc trọng tội nhưng cũng có một vài “con sâu” hư hỏng, mắc vòng lao lý. Đó là do cha mẹ mải làm ăn, sao nhãng việc kèm cặp, dũa rèn hoặc quá lành không kiểm soát nổi con; gia cảnh túng bấn không cho con cái học hành; cha mẹ chia lìa, bỏ mặc đàn con hay làm ăn dễ dãi nuông con quá mức. Hoặc có tuy thuận đủ điều nhưng cách giáo dục con sai lầm, quên đi đạo lý, truyền thống, quên điều: gia đình hòa thuận thì muôn việc đều hưng thịnh (家和萬事興, Gia hòa vạn sự hưng).
Việc họ 族事 từ xưa và nay càng quan trọng, nó gồm nhiều phần việc khác nhau mà quan trọng là: Giỗ Tổ 忌日肇祖, xây Từ đường 造祠堂, chăm sóc mộ phần, soạn, ghi chép Gia phả 撰家譜, chắp nối họ mạc 寻族氏…Vừa qua, nhờ mọi người chung tay, góp sức, hiến kế họ ta đã làm được nhiều việc. Trong đó có việc dựng lại Từ đường (3/1999-4/2000), xây Mộ Tổ (10/2011-12/2011), chắp nối Gia phả, xây dựng “Dòng họ Văn hoá”…
Nhưng do nhiều nguyên nhân, trong đó có vấn đề lực bất tòng tâm 力不從心 và có thành viên còn tỏ ra miễn cưỡng, tự ti, tự ái lẫn nhau đứng ngoài nên việc họ chưa thực hưng thịnh và dễ bị đứt quãng. Đặc biệt có một số vấn đề tồn tại từ những đời trước chưa được thông cảm, san lấp trong thời mở cửa, hòa nhập này !
Cần lắm những người tâm huyết với việc họ và những Mạnh thường quân.
-         Lương Đức Mến, Đời thứ Bẩy, Thế hệ thứ Hai trên đất Lào Cai-


[1] Đây không phải là trường hợp họ “kép” kiểu Tư Mã 司馬, Gia Cát 诸葛 hay Lương Khâu 梁丘, Cốc Lương 谷粱, Công Lương 公良 bên Tầu mà đơn thuần là việc đặt tên đêm. Việc thay tên lót này không thấy tài liệu nào chép lại rõ ràng. Mỗi người giải thích một cách,ví dụ: Các Chi mâu thẫn, không hợp được nên “tách họ” = thay chữ đệm. Trong đó, con cháu cụ Đồ Thiệu vốn chăm học nên đổi ra Lương Hoàn (với ý Hoàn mĩ), các ngành kia dù sao cũng muốn giữ cái đức nên đổi ra Lương Đức.
Theo ý tôi: -Chữ Công vốn không phải chữ  dùng ghi tên lót của đa số người Việt và hay đi liền chữ Đức (Tổ tông Công Đức, Con cháu Thảo Hiền); tên thuỵ các cụ có chữ Đức:Ví dụ cụ Lương Công Tú thuỵ là Đức Long, con cháu thấy hay bèn theo. Hoặc xưa cúng giỗ đều gọi Lương Công huý...tỏ ý cụ họ Lương tên là... về sau con cháu do Gia phả thất lạc nên nghĩ là Thuỷ Tổ dùng tên lót là “Công”.
[2] Điều này rất phiền phức cho ai đi công tác, học tập, trong giao dịch cần giấy tờ tuỳ thân, Văn bằng, Chứng nhận. Việc thay đổi tên họ phải được phép của Nhà nước, không thể tuỳ tiện. Hơn nữa chữ Công cũng chưa phải tên lót gốc (VN con trai thường đệm Văn). Do đó ai Khai sinh đệm sao thì nên giữ nguyên là hợp lí, hợp pháp và hậu duệ nên tôn trọng tiền nhân. Riêng trên Lào Cai chúng tôi thống nhất vẫn dùng Lương Đức, trừ một vài cháu, ví dụ con vợ hai anh Thiếp ở Xuân quang, không hiểu tuỳ hứng “cải biên”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!