Trong quá trình
soạn Gia phả hay Kỷ yếu dòng họ, một vấn đề đặt ra là có đưa gái họ Lương vào
hay đưa dâu họ Lương vào nhiều hơn? Bài viết này sẽ gải quyết vấn đề đó.
Khi bước ra khỏi
thời kỳ dã man cũng là lúc con người biết đến một thiết chế xã hội “văn minh”
mà trong đó các thành viên được liên kết với nhau vừa bằng quan hệ hôn nhân vừa
bằng quan hệ huyết thống. Đó là “Gia đình” kéo theo là mối quan hệ về dòng Họ (Đại Gia đình). Đây là một thiết chế xã
hội cổ truyền, bao gồm nhiều gia đình cùng huyết thống, có “chung tên họ về
phía bố” nhằm đảm bảo tránh loạn luân và giữ việc thờ phụng Tổ tiên. Dưới chế
độ phụ hệ, con theo họ cha và thực thi nguyên tắc “cha truyền con nối” trên
nhiều vấn đề. Đây không đơn thuần là tư tưởng phong kiến mà nó rất phù hợp với
việc di truyền phả hệ dòng cha dưới góc nhìn của Khoa học hình sự.
1. Con theo họ cha và vai trò Trưởng Nam
Ngược dòng lịch
sử, chúng ta biết rằng trong xã hội nguyên thủy, đàn bà con gái làm việc lượm
hái trái cây vừa ăn vừa để dành nên coi là nguồn sống trọng yếu, còn đàn ông đi
săn bắn thì bữa có bữa không nên phải lệ thuộc vào đồ hái lượm của đàn bà để
sống. Chính vì sự nhờ nhau mà sống và nhu cầu bản năng sinh lý mới nảy sinh
quan niệm kết hôn. Nhưng đây là hiện tượng “huyết tộc quần hôn” và đa phần con
cái chỉ biết đến mẹ không bao giờ biết bố là ai. Thế mới có truyện chép rằng
những thánh nhân thời thái cổ như Tam Hoàng, Ngũ Ðế trong thần thoại đều không
có cha. Như Phục Hi có mẹ là Hoa Tư “dẫm
phải dấu chân người khổng lồ” mà sinh ra ông; Hoàng Đế có mẹ là Phụ Bảo
thấy điện vây quanh sao Bắc Đẩu... cảm ứng mà có thai ông; Vua Nghiêu có mẹ là
Khánh Đô hợp cấu với rồng đỏ mà sinh ra. Trong sử Việt Nam, cũng đầy chuyện
thần thoại về các danh nhân, như Thánh Gióng được sinh ra do bà mẹ dẫm phải vết
chân khổng lồ; Ðinh Bộ Lĩnh bơi lội tài tình vì có cha là con rái cá gần với mẹ
mình ở bờ sông; Lý Công Uẩn sinh ra là do mẹ là Phạm thị đi chơi chùa Tiêu Sơn
mộng thấy “đi lại” với thần nhân mà có thai.
Khi con người
biết mài đồ đá cho sắc để chặt cây cối làm nhà thay hang và nung đồ đất đựng,
nấu thức ăn nên đã định cư một nơi và tổ chức thành xã hội thị tộc, có thiết
chế gia đình với ban đầu là thời kỳ mẫu hệ hay chế độ mẫu quyền, con cái chỉ
biết đến có mẹ. Người đàn ông đi săn bắn đem lại số thực phẩm quan trọng nhưng
bấp bênh nên có vai trò mờ nhạt. Trong khi người phụ nữ haí lượm, trồng tỉa,
chăn nuôi quanh nhà đem lại sự ổn định nên giữ vai trò lãnh đạo, có quyền và
tài sản được truyền từ mẹ cho con gái. Tuy nhiên khi xã hội càng phát triển,
nhu cầu bảo vệ lãnh địa, chăn đàn gia súc, cầy bừa, dẫn nước be bờ trở nên nặng
nhọc là việc của trai tráng sức lực. Ðàn ông con trai với thể lực khỏe mạnh
(chữ Nam
男 chỉ con trai được viết với chữ
Ðiền 田 ruộng + Lực 力 sức khỏe) lo sản xuất lương thực thóc
lúa trở nên nắm quyền, làm nền tảng cho phụ hệ. Khi ấy hôn nhân cặp đôi thành
phổ thông, đàn ông lấy vợ đem vợ về nhà mình... Con cái đã biết cha nên sự thừa
kế phải theo phụ hệ. Do vậy chữ Phụ 父 , tức “cha” viết bằng hình tượng bàn tay cầm cây gậy chỉ huy. Cùng
với đó là nhu cầu quản lý xã hội nên hình thành “họ” để phân biệt các nhóm gia
đình chung một ông tổ.
Họ là một phần
trong tên gọi đầy đủ của một người để chỉ ra rằng người đó thuộc về dòng họ
nào. Họ và tên của một người định vị trí của cá nhân người đó trong xã hội, xác
định cá thể trong một toàn thể. Trong đó, “Họ” 氏 là để phân biệt huyết thống, cho ta thấy nguồn gốc ông cha, “tên” 名 để phân biệt người này với người khác.
Như vây, nếu Gia đình chỉ gồm có ông bà, cha mẹ và con cháu thì với việc họ có
Gia tộc 家族 và trong gia tộc
có thêm chú bác, cô dì, chắt, chút... Nói một cách đơn giản và đầy đủ thì gia
tộc là cộng đồng những người cùng do một cụ tổ sinh ra, bao gồm những người
cùng họ và cả những người mang họ khác, thuộc gia tộc khác về làm con dâu, cháu
dâu trong họ. Theo cách hiểu phổ thông của dân gian, tên họ là thành phần đứng
đầu của tên và tên họ là tên để chỉ một gia tộc phụ hệ gồm những người cùng
liên hệ huyết thống xa gần với nhau. Gia tộc gồm có chi trưởng và nhiều chi
thứ. Giữa các chi có thể phân biệt bằng tên đệm. Theo truyền thống, trong gia
tộc Việt Nam
người cùng một họ nếu lấy nhau sẽ phạm vào tội loạn luân.
Theo nhiều nhà
nghiên cứu thì ở Trung Quốc, việc đặt họ tên bắt đầu từ năm 2852 tCn, khi vua
Phục Hi ra lệnh bắt dân chúng phải có một "gia tính" 家姓 hay "tộc tính" 族姓 để dễ phân biệt các hệ phái gia đình và
định phép tắc hôn nhân. Ðến thế kỷ thứ 5 tCn đã có hai loại "gia
tính" được dùng: "tính" 姓 là họ gốc, do cha truyền con nối hoặc do vua ban, và dành cho nam
giới; "thị" 氏 là họ cành, tức
tên đặt khi mới sinh dùng cho cả nam lẫn nữ.
Việt Nam ta, trước
khi có chữ viết và ảnh hưởng mạnh của văn hoá người Hán, của Khổng giáo dân
Việt chỉ quen gọi tên mà chưa có họ. Khi Âu Lạc mất vào tay Triệu Đà 趙佗 năm 207 tCn (theo Đại Việt Sử ký Toàn
thư) hoặc năm 179 tCn (theo Sử Ký của Tư Mã Thiên), quan lại phương Bắc khi cai
trị cần lập "sổ điền", “sổ đinh”, “sổ bộ” cốt để kiểm kê ruộng đất,
nhân khẩu xuất hiện nhu cầu đặt họ cho người dân Việt. Đồng thời lúc này người
Việt chính thức theo chế độ phụ hệ, do đó con cái phải lấy họ cha. Do ảnh hưởng
văn hoá Trung Hoa nên người Việt có những họ gốc Trung Hoa, hay dù có gốc nào
khác cũng được viết bởi chữ Hán, đọc theo âm Hán Việt. Sau thêm chữ Nôm rồi
"quốc ngữ" hóa.
Tiếng Việt có bốn
từ chỉ tên họ: Tính 姓 (gồm chữ Nữ 女 + Sinh 生, con cháu gọi là “tử tính” 子姓, thứ dân gọi là “bách tính” 百姓; Thị 氏 (thường dùng để
chỉ tên đời, tên nước), Tộc 族 (nguyên thủy
viết với hình ảnh một nhánh rễ chạy lan tỏa ra thành nhiều cây con, con cháu
cùng một liêu thuộc với nhau: Từ cha, con đến cháu là ba dòng là “tam tộc” 三族; Từ ông cao tổ đến cháu huyền tôn gọi là
chín dòng là “cửu tộc” 九族) và Họ 户. Trong đó, “họ” là từ Nôm, còn ba từ kia
là Hán Việt.
Trong một dòng
họ, theo cổ truyền, thường quan tâm nhiều đến tình máu mủ ruột thịt trong phạm
vi 9 đời (Cửu tộc 九族, tức khoảng 200 năm). Tính từ trên xuống
là: Cao tổ (高祖 Kị) , Tằng tổ (曾祖 Cụ) , Tổ ( 祖 Ông, Bà) , Phụ, Mẫu (父母 Cha, Mẹ), Ngã (Bản thân, 我), Tử (子 Con), Tôn (孫 Cháu), Tằng tôn
(曾孫 Chắt), Huyền Tôn (玄孫 Chút). Trên Cao tổ gọi chung là Thủy Tổ 始祖, Viễn Tổ 遠祖 và hàng dưới Huyền tôn gọi là Viễn tôn 遠孫.
Dưới chế độ phụ
hệ con mang họ cha, cha truyền con trai nối cả về tài sản, ruộng đất và việc
thờ cúng tổ tiên. Giáo lý nay do Khổng Khâu (孔子, 551 tCn-479 tCn) sáng
lập từ thời Xuân Thu và chiếm vị trí độc tôn dưới thời nhà Hán. Nhưng việc
chuyển từ thị tộc mẫu hệ qua thị tộc phụ hệ có lẽ đã bắt đầu đời Thương (商, 1766–1122
tCn) với chuyện vua Vũ truyền ngôi cho con trai (nghĩa là “truyền tử” chứ
không “truyền hiền” như thời các thánh đế Nghiêu Thuấn).
Trong các con thì
vai trò của người con trai lớn 長男 là quan trọng
nhất. Việc thờ phụng tổ tiên được coi trọng nên các nhà khá giả thường để ruộng
giỗ giao cho trưởng tộc hoặc trưởng chi để lo việc tế tự, và người chủ trì việc
cúng giỗ là gia trưởng ở các chi nhỏ (phân chia) và trưởng tộc ở trong gia tộc
(đại tôn). Quyền trưởng nam gắn liền với trách nhiệm thờ phụng tổ tiên được quy
định lần đầu tiên trong bộ luật do vua Lê Thánh Tông ban hành năm 1461. Theo
đó, người đàn ông lớn nhất trong gia đình chịu trách nhiệm thờ cúng tổ tiên chỉ
khi người này mất đi thì việc thờ cúng sẽ chuyển sang người con trai lớn (đích
tôn). Trong trường hợp, người đàn ông không có con trai thì việc thờ cúng tổ
tiên sẽ chuyển sang người chú kế cận và nguyên tắc trên lại áp dụng cho gia
đình người chú và luật Hồng Đức quy định việc chọn đích tử, đích tôn:
1. Trước hết phải
chọn con trưởng của người vợ cả.
2. Nếu người đích
tử chết trước, thì lập người cháu trưởng.
3. Nếu không có
cháu trưởng mới lập con người vợ thứ.
4. Trong hàng con
vợ thứ, không chọn lấy người nhiều tuổi, mà lại chọn lấy người con hiền của vợ
lẽ.
5. Trong trường
hợp không có con trai, thời được chỉ định các con gái hoặc người thân thuộc
(điều 388, 389 luật Hồng Đức).
Ngày nay pháp
luật dân sự quy định con người có quyền có họ tên và quyền về họ tên đó. Họ,
tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó theo họ
người cha hoặc có thể theo họ người mẹ. Trong thực tế đời sống xã hội thì yếu
tố “nối dõi tông đường” của con trai vẫn chi phối chủ yếu.
Dù trong thời
nào, chiến tranh hay hòa bình vai trò của người Gia trưởng 長族 rất quan trọng. Nếu người đó hội đủ các
yếu tố: Tâm (心 Hiếu đễ, Hòa
kính, trách nhiệm…), Tài (財 khả năng tài
chính đủ ăn, đủ chi), Trí (智 hiểu biết về xã
hội, về lệ tục, có trình độ, có vị thế trong xã hội, biết sắp xếp công việc),
Thể (體 có sức khỏe, xốc vác, minh mẫn)
thì gia đình đó hay Chi, Phái đó hoặc toàn Gia tộc sẽ vững vàng đi vào hưng
thịnh. Đây là người Thiên định 天定, không phải do
bầu, do cử hay tranh mà được. Nhưng khó ai hội đủ 4T (心財智體) đó nên căn bản nhất vẫn là cái Tâm 心. Tâm sáng, lòng trong thì có thể vượt
qua được, xứng là ngọn cờ tập hợp toàn gia, dù có nhiều khó khăn trắc trở. Kéo
theo đó, vai trò của Dâu trưởng lại càng quan trọng ở tính Nhẫn, Hiếu, Đễ. Nếu
gặp bậc gia trưởng 族長,兄長 chưa được như ý mà người nào trong họ,
trong nhà tỏ ý khinh nhờn thì người đó, nhà đó sớm muộn gì cũng không có hậu
vận hanh thông. Ngược lại, có người tuy thuộc chi thứ, ngành thứ, là con thứ
nhưng nếu hội đủ hay đáp ứng phần nào 4T mà thực sự có Tâm thì rất có vai trò,
ảnh hưởng trong dòng họ và khi đó gia trưởng mà biết lắng nghe, tận dụng thì
gia tộc sẽ hưng thịnh. Đó là do Đời định 人定! Nếu Thiên định và Nhân định hài hòa thì thật là toàn vẹn!.
2. Nhu cầu chắp nối họ mạc, “vấn tổ tầm tông”:
Qua bao thăng
trầm của lịch sử, của dòng tộc, do “Thuỷ, Hoả, Đạo, Tặc” 水火盜賊 làm cho nhiều gia đình, chi phái phải
“phiêu cư bạt tán”, che dấu tung tích...lâu dần thất lạc nhau, các thế hệ sau
không rõ cội nguồn, tổ tiên. Khi có nhu cầu muốn tìm về gốc gác, chắp nối họ
mạc gặp bao trở ngại, nhiều khi là vô vọng.
Từ bao giờ trong
họ Lương đã có lời truyền của tổ phụ là: “Nam
bang Lương tính giai ngã tử tôn” 南邦梁姓偕我子孙, tức là “họ Lương ở nước Nam đều là con cháu ta cả”. Nhưng
thực ra, dòng họ Lương Việt Nam khởi nguyên từ đâu không thể xác định được, các
chi phái họ Lương ở cùng vùng, khác vùng liên hệ với nhau ra sao, có cùng chung
gốc hay không cũng chưa có lời giải đáp. Đúng là “Tiền tiền vô thủy” (前前無始, Không biết điểm bắt đầu).
Ngay họ Lương Đức
ở Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng của tôi theo truyền ngôn là hậu duệ của Thượng
thư Bảng nhãn Lương Đắc Bằng nhưng bản thân tôi đã truy mãi mà những tư liệu về
việc truyền dẫn này diễn ra thế nào, đến nay là bao nhiêu đời, quan hệ với
ngành gốc ở Hội Triều, ở Vĩnh Bảo, Tiên Lãng ra sao cũng không rõ được, thậm
chí còn có ý kiến mâu thuẫn nhau!.
Theo truyền
thống, việc xác định tổ tiên của mỗi người dựa vào Gia phả, vào Phả hệ và lời
truyền qua các đời. Nhưng khi không được chép lại hay có nhưng tất cả đã thất
lạc, tam sao thất bản thì gặp muôn trùng khó khăn và việc dựa vào cứ liệu lịch
sử, tài liệu ghi chép, truyền ngôn, điền dã dần rơi vào bế tắc.
Ngày nay yêu cầu
đó có thể dựa vào việc xét nghiệm gen di truyền, cụ thể:
- Cây phả hệ di
truyền theo đường mẹ, tức theo ADN ty thể (mitochondrial DNA) người mẹ truyền
cho cả con trai và con gái.
- Hay dựa vào Sơ
đồ phả hệ di truyền theo dòng cha, tức là theo ADN nhiễm sắc thể Y
(mitochondrial DNA) mà người cha chỉ truyền cho con trai.
Đây là những vấn
đề mới, lớn đòi hỏi tri thức, kỹ thuật và kinh phí cao, nhưng thu được hiệu quả
lớn. Điển hình cho việc này là người Trung Quốc tiến hành tu chỉnh Gia phả dòng
họ người đã đề ra Nho giáo, trong đó có vấn đề “con theo họ cha”. Theo bản tin
quốc tế của Tinh châu Nhật báo ra ngày 25/9/2009 (星洲日報/國際‧2009.09.25), sau 10 năm thu thập
dữ liêu, so sánh, kiểm chứng, giám định AND tốn kém nhiều công sức, của cải
việc đại chỉnh lý " Khổng tử thế gia phổ" 孔子世家譜 lớn nhất của hậu duệ của Khổng Tử
tiến hành từ 1999 đã hoàn thành. Ngày 24/9/2009 (kỷ niệm 2560 năm ngày sinh của
Khổng Phu tử), Tân bản (lần thứ 5) đã được công bố. Theo đó thì gia phả họ
Khổng đã có trên 2500 năm và đến nay đã phát triển tới 83 thế hệ. Từ bản gốc
với 600.000 hậu duệ, dựa trên việc bổ sung hơn 1,4 triệu người nên phiên bản
mới thêm hơn 2 triệu người, tổng số là 4, 3 triệu người, được chia thành 80
tập, với tổng trọng lượng hơn 120 kg. Trong số đó, lần đầu tiên đã đưa 20.000
phụ nữ Gia phả, thay đổi quan trọng trong quan niệm “trọng nam khinh nữ”. Ngoài
ra, do hôn phối và thay đổi các yếu tố nên một số người Hồi, Miêu, Thủy, Hà
Nhì, Tây Tạng và dân tộc thiểu số khác là hậu duệ cùng hậu duệ ở nước ngoài lần
đầu tiên được tích hợp vào các cây phả hệ. Ngoài ra, một số phái bị mất liên
lạc với hơn 200 năm ở Đài Loan, Bình Đông, Long Đàm, Đào Viên, …hay số tách ra
ở Sơn Tây và Hà Nam, Tích Dương…đều được đưa vào. Tuy nhiên, danh sách trên
được ước tính trên toàn thế giới sẽ lớn hơn 3.000.000 người có thể phải chờ một
lần nữa khi được xác định chính xác sẽ đưa vào hợp nhất.
Trong đó việc xét
nghiệm gen để xác định phả hệ và huyết thống của những người nhận mình là hậu
duệ Khổng Tử mà không thể chứng minh được; đồng thời xây dựng kho số hóa phân
tích ADN hậu duệ của Khổng Tử do Trung tâm Giám định vật chứng tư pháp 司法物证鉴定中心 thuộc Viện Nghiên cứu gen di
truyền Bắc Kinh 北京遗传研究ADN所, Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc 中国科学 院 hỗ trợ. Người muốn xác định gen “chỉ cần cung cấp một sợi tóc” là
có thể biết mình có đúng là hậu duệ Khổng Tử hay không. Với các dòng họ khác,
nhất là ở Việt Nam
điều đó là không tưởng trong giai đoạn gần.
3. Con cái là sản phẩm di truyền của Cha, Mẹ.
Dưới góc nhìn
sinh học, dù là người, thú hay các giống cây đều chứa cùng loại base trên dãy
ADN. Chỉ có chiều dài của ADN và thứ tự sắp xếp của bốn “viên gạch“ nói lên sự
khác biệt của các loài và chính AND là nơi chứa mọi thông tin chỉ dẫn cần thiết
để tạo nên các đặc tính sự sống của mỗi sinh vật.
Mỗi phân tử ADN
bao gồm các vùng chứa các gene cấu trúc, những vùng điều hòa biểu hiện gene, và
những vùng không mang chức năng, hoặc có thể khoa học hiện nay chưa biết rõ gọi
là junk ADN. Cấu trúc phân tử ADN được cấu thành gồm 2 chuỗi có thành phần bổ sung
cho nhau từ đầu đến cuối. Hai chuỗi này được giữ vững cấu trúc bằng những liên
kết hoá học. Các liên kết này khi bị cắt sẽ làm phân tử ADN tách rời 2 chuỗi
tương tự như khi ta kéo chiếc phéc mơ tuya; ADN thường gặp có cấu trúc 2 mạch
bổ sung, xoắn phải (theo mô hình của J.Oat xơn và F Crick), 2 mạch ngược chiều
nhau. Về mặt hoá học, các ADN được cấu thành từ những viên gạch, gọi là
nucleotide,viết tắt là Nu, từ các nguyên tố C, H, O, N, P. Do các Nu chi khác
nhau ở base (1Nu = 1 Desoxyribose + 1 phosphate + 1 base), nên tên gọi của Nu
cũng là tên của base mà nó mang. Trong khi phân tử đường và phosphat tạo thành
hai thân sóng của ADN để giữ vững thì các base là cầu nối liền hai nhánh theo
một nguyên tắc nhất định. Chỉ có 4 loại gạch cơ bản là A (Adenin), T (Thymin),
X (Cytosin), và G (Guanin). Mỗi base trên 1 chuỗi chỉ có thể bắt cặp với 1 loại
base nhất định trên chuỗi kia theo một quy luật chung cho mọi sinh vật. VD theo
quy luật, một "A" ở chuỗi của phân tử ADN sợi kép sẽ chỉ liên kết
đúng với một "T" ở chuỗi kia.(Nguyên tắc bổ sung). Liên kết giữa các
Nu trên 1 mạch là liên kết photphodieste; giữa các Nu trên 2 mạch với nhau là
liên kết Hidro.
Trật tự các base
dọc theo chiều dài của chuỗi ADN gọi là trình tự, trình tự này rất quan trọng
vì nó chính là mật mã nói lên đặc điểm hình thái của sinh vật. Tuy nhiên, vì
mỗi loại base chỉ có khả năng kết hợp với 1 loại base trên sợi kia, cho nên chỉ
cần trình tự base của 1 chuỗi là đã đại diện cho cả phân tử ADN.
Một trình tự ADN
hay trình tự di truyền là chuỗi các kí tự liên tiếp nhau nhằm biểu diễn cấu
trúc chính của một dải hay phân tử ADN thực hoặc tổng hợp, mà có khả năng mang
thông tin.
Khi ADN tự nhân
đôi, 2 chuỗi của ADN mạch kép trước tiên được tách đôi nhờ sự hỗ trợ của một số
protein chuyên trách. Mỗi chuỗi ADN sau khi tách ra sẽ thực hiện việc tái tạo
một chuỗi đơn mới phù hợp bằng cách mỗi base trên chuỗi gốc sẽ chọn loại base
tương ứng (đang nằm tự do trong môi trường xung quanh) theo quy luật như trên.
Do đó, sau khi nhân đôi, 2 phân tử ADN mới (mỗi phân tử chứa một chuỗi cũ và
một chuỗi mới) đều giống hệt trình tự nhau nếu như không có đột biến xảy ra.
Đột biến hiểu đơn
giản là hậu quả của những sai sót hoá học trong quá trình nhân đôi. Bằng cách
nào đó, một base đã bị bỏ qua, chèn thêm, bị sao chép nhầm hay có thể chuỗi ADN
bị đứt gẫy hoặc gắn với chuỗi ADN khác. Về mặt cơ bản, sự xuất hiện những đột
biến này là ngẫu nhiên và xác suất rất thấp.
Nhiễm sắc thể là
vật liệu di truyền ở cấp độ tế bào, có vai trò rất quan trọng trong di truyền.
Đường kính của nhiễm sắc thể có chiều dài từ 0,5-50 micrômét, đường kính từ
0.2-2 micromét, đồng thời có bốn hình dạng đặc trưng là hình móc, hình que,
hình hạt và chữ V. Tế bào của mỗi loài sinh vật khác nhau thì có bộ nhiễm sắc
thể khác nhau, đặc trưng về số lượng và hình dạng của mỗi loài. Số lượng bộ
nhiễm sắc thể trong bộ lưỡng bội không phản ánh được trình độ tiến hóa của
loài. Ví dụ bộ NST của cá chép là 104, của gà là 78, tinh tinh là 48 nhưng rõ
là con người (46) lại là đỉnh cao của tiến hoá.
Con người là một
động vật có cấu tạo tế bào đầy đủ. Con người có khoảng 3,2 tỉ phân tử ADN (acit
desoxyribonucleic) và bộ NST của con người là 2n=46 (n=23). Mỗi tế bào có 23
cặp nhiễm sắc thể, trong đó có 22 cặp nhiễm sắc thể thường và 1 cặp nhiễm sắc
thể giới tính (gonosom). Mỗi người được nhận 23 nhiễm sắc thể từ cha và 23
nhiễm sắc thể từ mẹ, tạo thành 23 cặp tương đồng. Giới tính của môt đứa trẻ về
cơ bản được xác định bởi hai nhiễm sắc thể giới tính: Một tế bào giống đực bình
thường có một nhiễm sắc thể X và một nhiễm sắc thể Y, còn tế bào của giống cái
có 2 nhiễm sắc thể X. Do vậy, nhiễm sắc thể giới tính ở nam là XY và ở nữ là XX
và nhiễm sắc thể Y ở nam chỉ được nhận từ cha, còn nhiễm sắc thể X có ở cả 2
giới có thể được nhận từ cha lẫn mẹ. Khi thụ tinh, hệ gen ty thể của người cha
nằm ở đuôi tinh trùng nên không tham gia vào quá trình tạo phôi. Do vậy, gen ty
thể của người cha không được truyền cho các con còn con gái không có nhiễm sắc
thể giới tính Y nên nhiễm sắc thể này chỉ được người cha truyền cho con trai.
4. Xác định một con người theo cổ điển và bằng
kỹ thuật hiện đại.
Mỗi con người đều
là thành viên của một gia đình, một tổ chức, một gia tộc. Việc cá thể hoá người
đó được xác định bởi họ tên và theo thông lệ, pháp luật, tên họ đó được ghi
trong Sổ Hộ khẩu, trong Danh sách (của cơ quan, tổ chức), trong Phả hệ dòng họ,
trong bộ nhớ của các thành viên...
Nếu vì một lý do
nào đó các phương pháp truyền thống trên chưa định danh tính được thì ngày nay
có thể ứng dụng đặc tính quan trọng của ADN, ADN ti thể (mitochondrial DNA),
ADN giới tính Y (mitochondrial DNA) mà truy nguyên. Vấn đề này được ứng dụng
trong Khoa học hình sự và trong nghiên cứu phả hệ, truy tìm danh tính, tổ tiên
người. Độ chính xác của phương pháp xét nghiệm huyết thống dựa trên công nghệ
gen có các mức độ khác nhau, phụ thuộc vào số lượng các locus sử dụng trong
phân tích. Càng nhiều Locus được sử dụng thì độ chính xác càng cao. Hiện Công
ty cổ phần Công nghệ Sinh học Bionet Việt Nam có trụ sở chính: Nhà 12N1, đường
Hoàng Cầu, Phường Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội có thực hiện các xét nghiệm ADN
dân sự. Có thể tóm lược theo 4 phương pháp là:
1. Giám
định gen ADN: sử dụng ADN thu nhận từ máu, tinh dịch hay lông, tóc để
lại trên hiện trường hay của một người cần truy nguyên dựa vào tính đa hình của
các Alen trong các gen đặc hiệu tìm ra chủ nhân đích thực của những dấu vết đó.
Lĩnh vực này gọi là kỹ thuật vân tay ADN (genetic fingerprinting) hay ADN
profiling (kỹ thuật nhận diện ADN). Kỹ thuật này được thế giới áp dụng từ năm
1985 và tại Việt Nam
từ năm 1999.
2. Giám
định nhiễm sắc thể X: Trong 46 nhiễm sắc thể của tế bào cơ thể người
thì nhiễm sắc thể X tuy số gen tìm được trên đó chỉ tương đương với khoảng 4%
tổng số gen của người nhưng nó đóng vai trò đặc biệt. Nó không chỉ chứa các gen
chịu trách nhiệm về việc xây dựng và phát triển cơ thể con người như những
nhiễm sắc thể khác mà còn quyết định giới tính (nam hay nữ) của người mang nó.
Đây là xét nghiệm
nữ-nữ. Vì bố mang gen XY, mẹ mang gen XX. Để sinh ra con gái, một nhiễm sắc thể
X từ người bố và 1 nhiễm sắc thể X từ người mẹ kết hợp với nhau. Do người bố
truyền nhiễm sắc thể X cho các con gái của ông ta nên với xét nghiệm sử dụng
nhiễm sắc thể X chúng ta sẽ biết được liệu hai chị em gái cùng mẹ có cùng bố
hay không.
3. Giám
định ADN ty thể : Ty thể là một bào quan, là “nhà máy” cung cấp năng
lượng cho tế bào. Điều đặc biệt là ty thể có hệ gen riêng, độc lập với hệ gen
di truyền ở trong nhân. Khi thụ tinh, ty thể của người cha tập trung nằm ở phần
sát đuôi của tinh trùng và không tham gia vào quá trình thụ tinh. Trong khi đó,
tế bào trứng (của người mẹ) lại chứa ty thể tham gia vào quá trình thụ tinh và
hình thành phôi thai. Chính vì vậy, một đứa trẻ ra đời sẽ chỉ mang ty thể của
người mẹ và hưởng các gen ty thể (mtDNA) từ đó.
Do gen ti thể có
tần số đột biến cao nên có khả năng xác định đột biến giữa các cá thể cùng mẹ
sinh ra cũng như những cá thể của các bà mẹ khác và chúng có mạch vòng, bền
vững lâu bị phá huỷ khi tử thi chôn cất lâu ngày.
Xét nghiệm này
được sử dụng để khẳng định hoặc bác bỏ mối quan hệ họ hàng trực tiếp theo dòng
mẹ giữa 2 hoặc nhiều người tham gia (nam hoặc nữ)
Xét nghiệm bằng
cách so sánh hệ DNA ty thể - xét nghiệm theo dòng mẹ- có thể xác định được mối
quan hệ của một người trong những mối quan hệ họ hàng đã mất từ rất lâu và tổ tiên
thông qua dòng mẹ. Nó cũng có thể cung cấp thêm thông tin cho các hoàn cảnh
nghi vấn về quan hệ huyết thống mẹ con nhưng người mẹ không thể tham gia vào
xét nghiệm. Xét nghiệm này còn dùng để định danh tính của hài cốt chưa rõ tên.
Quá trình này được thực hiện theo quy trình rất chặt chẽ, vô khuẩn, chính xác
với máy móc hiện đại với mẫu đối chứng thuận lợi nhất là máu của người thân
liên quan tới dòng mẹ (mẹ đẻ, anh chị em cùng mẹ, con của chị em gái...) bởi hệ
gien ty thể của người cha nằm ở đuôi tinh trùng nên không tham gia vào quá
trình tạo phôi khi thụ thai.
Công việc này là
thế mạnh của Viện PY Quân đội khi tìm tên liệt sĩ vô danh.
4. Giám
định ADN giới tính Y (mitochondrial
DNA): tuy hệ gen nhân di truyền theo dòng cha có mạch thẳng, dễ bị phá huỷ
khó tiến hành với các thi xác chôn lâu năm những nó chỉ truyền từ người bố cho
con trai và di truyền qua các thế hệ với độ ổn định lớn nên có nhiều ứng dụng
việc truy nhận cha-con trai. Tuy nhiên trong các trường hợp đặc biệt, ví dụ là
2 người bố nghi vấn có cùng huyết thống (là anh em ruột) thì cơ bản sẽ có hệ
allen rất giống nhau, trong trường hợp này thay vì tiến hành với 16 locus cần
phải làm nhiều locus hơn (18 locus và 23 locus). Có thể ứng dụng kỹ thuật này
trong việc xác định họ hàng nam giới của người có nhu cầu, đặc biệt trong xác
lập phả hệ theo dòng bố.
Tại nhà hàng
Shish chuyên kinh doanh các món ăn đặc sản vùng Trung Á và Trung Đông ở phía
Bắc London đã thực hiện việc khuyến mãi bằng cách dành cho thực khách cơ hội
thử gen di truyền ADN để xác định có thuộc dòng dõi Thành Cát Tư Hãn (Genghis
Khan) của đế chế Mông Cổ thế kỷ 12 hay không. Người nào có gen di truyền đúng
là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn thì được ăn miễn phí.
5. Các con, cháu, chắt... trai nhận được hạt
giống di truyền ở Cụ Tổ:
Vấn đề di truyền
từ cha mẹ sang con cái như nói ở trên, khoa học đã biết đến từ thế kỷ trước.
Nhưng những đoạn lặp lại song song ngắn (STR) trong nhiễm sắc thể giới tính Y
(Y-ADN) mới được biết đến từ 6/2003 khi dự án giải mã hệ gen người được hoàn
thành. Chính lúc đó toàn bộ trình tự ADN trên nhiễm sắc thể Y ở nam giới mới
được xác định.
Các nhà khoa học
nhận thấy rằng: Nhiễm sắc thể Y là một trong hai giới tính xác định nhiễm sắc
thể trong hầu hết các động vật có vú , bao gồm cả con người. Nhiễm sắc thể Y của
con người gồm có khoảng 60.000.000 cặp base và được truyền từ đời cha sang đời
con trai. Tất cả những người đàn ông do cùng một Cụ Tổ sinh ra đều có trình tự
các đoạn lặp lại STR trên Y-ADN giống nhau, tức cùng kiểu gen Y STR. Do đó nó
được ứng dụng để xác định hai hay nhiều cá nhân nam có cùng một tổ tiên chung
gần nhất hoặc MRCA nếu họ có cùng Y-ADN (the same Y-DNA). Nói cách khác: “Nếu biểu đồ nhiễm sắc thể Y của ai tương ứng
với gen của một cụ Tổ đã được xác định thì có thể kết luận người đó là hậu duệ
của Cụ”.
Phục vụ cho lĩnh
vực giám định này cần có những trang thiết bị hiện đại nhất trên thế giới hiện
nay như hệ thống giải trình tự AB3130 phân tích 16 locus gen, các thiết bị gen
tự động PCR 9700, tủ hấp vô khuẩn, tủ an toàn sinh học...Đi theo đó là những bộ
kit (Power Plex Y, 9/2003 và Y Filer, 12/2004...)
Tại Việt Nam , Viện KHHS
là nơi duy nhất đã triển khai công việc giám định ADN theo dòng bố từ 8/2009 và
thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Tất nhiên, do kinh phí và nhiều nguyên nhân
khác mà Viện này mới phục vụ công tác điều tra án là chính. Kỹ thuật này đặc
biệt phát huy tốt khi các kỹ thuật truyền thống không đáp ứng được, như: mẫu
thu được ở hiện trường lẫn cả của nữ và nam; xác định nhóm đối tượng có hay
không cùng một dòng họ; gián tiếp xác định dấu vết sinh học để lại mà chưa tìm
được thủ phạm (là nam giới) để lấy mẫu (thông qua XN mẫu thu được từ bố, anh,
em, cháu trai); xác định thân nhân trong các vụ thảm hoạ, các vụ thất lạc
nhau...
Tóm lại: Kiểu gen
Y STR người cha chỉ truyền cho con trai, các cháu trai, chắt trai...bên nội và
kiểu gen Y STR của những “đinh nam” có chung một cụ Tổ là giống nhau. Kỹ thuật
xác định kiểu gen này ở những người có nhu cầu tại Việt Nam đã tiến
hành được.
6. Con trai thờ cúng tổ tiên là đương nhiên:
Các cụ ta xưa chỉ
dựa vào kinh nghiệm mà quan niệm sinh con trai để “duy trì nòi giống”, gọi
những người chung một cụ tổ là cùng “Huyết thống” 血統 với nghĩa đời đời nối dõi theo dòng máu,
cùng một chi gọi là "huyết tộc" 血族, con cháu gọi là "huyết dận" 血胤. Tuy chưa việc người cha có con trai
chính là việc duy trì kiểu gen Y STR của mình mà các cụ ta cũng đã từng đúc
kết:
Trứng rồng lại nở ra rồng,
Liu điu lại nở ra dòng liu điu.
Điều đó chứng tổ
chúng ta ngày nay còn phải học những tinh hoa của các cụ xưa nhiều! Những gen
quy định các tính trạng khác (trội hay
lặn) được di truyền từ ông cha cho con cháu không đề cập ở đây.
Điều đó cũng có
nghĩa là vấn đề lấy theo họ bố và việc thờ tự tổ tiên thuộc về con trai không
chỉ đơn thuần là quan điểm của “trọng nam khinh nữ” của Nho giáo mà khoa học
ngày nay nó được khẳng định trong cây phả hệ di truyền vật chất theo dòng bố.
Tất nhiên những “thâm gia bí sử” như việc “di hoa tiếp mộc”, “cấy huyết hoán
dòng” hay “cá vào ao ta” tuy người con trai vẫn mang họ cha, vẫn giữ việc thờ
cúng tổ tiên nhà mình nhưng có phải “con thiếp con chàng” hay không lại là
chuyện khác, không thuộc phạm vi di truyền của Y STR trong dòng họ.
Việc chắp nối họ,
xây dựng bản đồ phả hệ theo dòng cha của một dòng họ về mặt kỹ thuật nay đã ở
trong tầm tay. Vấn đề còn lại là nhu cầu, việc tổ chức thực hiện và kinh phí.
Khi bản đồ phả hệ theo dòng cha đã xây dựng đươc thì hai người đàn ông ở hai
đầu đất nước chưa từng biết đến nhau có khi lại cùng một cụ Tổ. Ngược lại rõ
ràng có những người tuy bao năm vẫn là thân tộc lại chẳng liên quan gì với nhau
về mặt sinh học. Đó là vấn đề xã hội, không phải khoa học nữa!
Dù sao cũng mong
một ngày nào đó áp dụng được kỹ thuật này vào nhu cầu “vấn Tổ tầm Tông” của họ
ta cũng như các chi phái, dòng họ Lương khác, họ khác!
Như vậy gái hay
dâu con trong họ có vai trò ngang nhau và tất nhiên quan trọng nhất vẫn là các
trai đinh!
Lào Cai, Kỷ
niệm 55 năm ngày giải phóng cố hương Hải Phòng
(13/5/1955-13/5/2010)
Bs Lương Đức Mến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!