[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


13 tháng 2 2010

Canh Dần-Năm chờ đợi!

Mười Hai con giáp biểu tượng cho thời gian theo Âm lịch có một ý nghĩa và giá trị đặc biệt, đôi khi cụ thể cho một lĩnh vực nào đó mà rất khó bác bỏ. Năm 2010 gắn với “Chúa Sơn lâm” cũng không ngoại lệ.

Âm lịch (thực ra là Âm Dương lịch) mà chúng ta sử dụng có nguồn gốc từ Trung Quốc và được hoàn thiện, bổ sung bởi thực tiễn kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm thiên văn của Việt tộc. Việc dân ta vay mượn của dân Hoa phép tính lịch cũng như các yếu tố văn hoá khác cũng là lẽ thường trong lịch sử phát triển, giao thoa của văn hoá nhân loại.

Quy tắc tính lịch hiện hành do đài thiên văn Tử Kim Sơn 紫金山天文台[1] công bố (Liu và Ste, 1984). Quy tắc này dựa theo kiến thức cổ truyền tích luỹ, phát triển từ ngàn xưa của người Hoa có sử dụng các số liệu, phương pháp tính hiện đại cuả phương Tây. Theo đó, việc tính toán dựa trên kinh tuyến pháp định (ở Việt Nam là 105 độ Đông múi giờ GMT+7:00 và ở Trung Quốc là 120 độ Đông múi giờ GMT+8:00) do đó Việt Nam đi trước Trung Hoa 1 giờ.

Để ghi tên thời gian (Giờ, Ngày, Tháng, Năm) Dương lịch dùng các con số còn Âm lịch phối hợp Thập Thiên Can với Thập Nhị Địa Chi. Dùng Can Chi để đặt tên các năm thì gọi là "Can Chi ký niên" và cứ 60 lại quay lại quay lại vòng tròn, đó là vòng Giáp Tý. Dùng Can Chi để ghi tháng gọi là "Can Chi ký Nguyệt" can chi để ghi ngày thì gọi là "Can Chi ký Nhật". Tên Can Vhi của tháng gọi là Nguyệt kiến, tên Can Chi của ngày gọi là Nguyệt sóc.

Cổ nhân chọn mưòi hai con vật, bao gồm cả vật nuôi lẫn thú vật hoang dã, vừa có thật vừa tưởng tượng để gán cho 12 năm gọi là 12 con giáp. Khi gán đều đáp ứng nguyên tắc âm dương, chẵn lẽ mang đặc trưng loài, thể hịên qua số ngón chân của chúng. 12 con này có số ngón tối đa là 5, tối thiểu là 1, còn lại là 2 và 4. Nhưng không có con nào có 3 ngón bởi số 3 được đưa vào hệ tam tài : Thiên - Ðịa - Nhân.

Một chu kỳ Hoa giáp có 60 năm nên mỗi con vật biến tướng 5 lần với 5 vị trí khác nhau và con Hổ cũng vậy: nó xuất hiện ở các năm Giáp Dần, Bính Dần, Canh Dần, Nhâm Dần, Mậu Dần và mỗi lần như thế nó mang diện mạo của những con vật khác. Do vậy không phải năm Dần-Hổ nào cũng như nhau.

Ngoài việc gọi tên năm tháng theo can chi, còn phân chia can chi thành Âm Dương, Ngũ hành, Bát quái.

Tuổi hổ: tương ứng với sao Nhân mã Sagittaries. Đây là mẫu ngưởi nhạy cảm, đa tình có đời sống nội tâm cao, luôn thận trọng nên thường do dự. Tuổi hổ trọng người ít tuổi, kỵ người cao tuổi hơn mình, thích tranh đấu, ghét những tật xấu, dám lao mình vào những công việc đầy rủi ro để thử thách bản lĩnh. Quả cảm kiên trì nhưng có vẽ ích kỷ, thiển cận, tuổi này giữ vía, ma quỷ cũng phải tránh đường. Họ có tính lãng mạng, nhiệt huyết trong tình yêu, dao động giữa tính thiếu chung thuỷ và tính độc lập. Tuổi này hợp duyên với tuổi ngựa và rồng, khắc tuổi trâu, rắn và khỉ.

Về mặt nạp âm, Canh Dần là Tùng Bách Mộc, là Hổ ra khỏi núi. Mộc Lâm Quan ở Dần, Đế Vượng ở Mão, Mộc đã vượng thì không thể nhu nhược được, vì vậy đặt là Tùng Bách Mộc (gổ cây tùng, bách). Thần Thái tuế Ô Hoàn, quẻ mệnh Nam là 8.Cấn Thổ, nữ là 7.Đoài Kim.

Năm CANH DẦN (2010) , nạp âm ngũ hành : Tòng bá mộc (cây tùng, cây bách), mệnh Thổ, trị niên Thái Tuế tên là Ổ HOÀN (鄔桓星君, Thái Tuế Canh Dần niên Ổ Hoàn Tinh Quân) Thái Tuế ngoài việc thể hiện vận trình chung của lưu niên năm đó, còn ảnh hưởng đến mệnh vận của cá nhân.

Can chi Canh Dần của năm là Mộc mà Mộc khắc Thổ tức là tự hành tương khắc, thiên tai, nhân họa nhiều. Nhưng chỉ xẩy ra khi Thổ suy, Mộc vượng còn nếu Mộc suy lại không khắc được Thổ vượng mà nó còn tưới cho đất thêm tơi xốp, lắm chất mùn…bởi đó là năm "Tứ thổ nẩy mầm phát sinh" và sẽ làm nền tảng cho những năm tiếp theo phát triển.

Về mặt Ngũ hành năm 2010 Canh Dần thì hàng Can thuộc Kim (+), còn hàng Chi thuộc Mộc (+) như vậy nó chứa cả Kim lẫn Mộc, cả hai yếu tố này đều rất mạnh. Mộc là cây, Kim là sắt, sắt rèn thành công cụ chém chặt cây. Mặt khác năm 2009 Kỷ Sửu trước đó là năm Trâu Thổ, một năm âm cho nên ngay sau nó, năm 2010 Canh Dần lại là Hổ Kim là năm dương nên mọi thứ sẽ trở nên đầy kịch tính.

Năm con Hổ được xem là mang lại sức mạnh anh hùng thần thoại, sẽ có những thay đổi sâu sắc về mặt xã hội.

Xét về mặt kinh tế nhìn chung sẽ không thuận lợi, và vì năm con Hổ nên sẽ có nhiều lên xuống. Nhưng bởi Thổ sinh Kim, sẽ giúp cho Kim vượng nên năm 2010 còn là năm cho nền Tài chính thịnh vượng, đặc biệt là cất cánh vào những năm sau.

Về môi trường sẽ có những thảm họa tự nhiên lớn và không thể đoán trước, bởi cháy rừng (Mộc), tàn phá môi sinh (Kim).

Nết dự đoán tương lai của một người cụ thể thì phải dựa trên những yếu tố ngày, giờ, tháng, năm sinh của người đó công với các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội môi trường người đó sống và làm việc.

Việc Hôn nhân năm nay không thật đẹp với mọi tuổi.

Đối với những bé sinh vào buổi chiều sẽ bị xem là "hổ đói", nghĩa là chúng gặp khó khăn khi kiếm ăn sau này. Và đa phần bé tuổi Dần sẽ mang tính cách như đã nói ở trên.

Những suy đoán trên chỉ là dựa theo lý thuyết về Âm Dương, Ngũ hành, Bát quái và phép ghi lịch âm theo hệ Can Chi. Nó đã được cổ nhân tổng kết bằng kinh nghiệm, chứ không phải tính toán bằng thực nghiệm như các dự báo của khoa học hiện đại. Dù sao cũng hữu ích khi ta “Chọn Lành tránh Dữ”.

Mong sao một năm Canh Dần, bản thân và mọi người tạo được thế “Ngọa Hổ tàng Long” để tạo đà cho những năm sau. Vui vẻ, lạc quan như đôi câu đối của một tác giả (quên tên) đã đưa lên mạng, tôi chuyển sang dạng thư pháp.
Âm:
Xuân phong trước ý tuỳ nhân nguyện;
Hổ khí sinh uy tráng quốc hồn.
Nghĩa:
Gió xuân thỏa ý tròn tâm nguyện
Khí cọp thêm oai mạnh nước non.

- Lương Đức Mến (ST và BT),Trưa 30 Tết Canh Dần-
Ghi chú:
[1] Đài này xây từ đời Minh ở gần Nam Kinh, trên đó có Lăng Tôn Trung Sơn 中山陵.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!