Nhà thờ họ (chữ là Từ đường, H: 祠堂,A: The ancestral temple, P: Le temple des ancêtres) là một trong những thứ mà chỉ có ở các nước theo đạo Khổng.
1.Từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha), nơi được coi như nhà Tổ 茄組, nhà quy tụ con cháu dòng họ, đồng thời cũng là nơi thờ tự ông bà tổ tiên, nhất là các ngày giỗ trọng. Đây cũng là nơi Hội đồng gia tộc hội họp, giải quyết việc họ; là nơi con cháu thực hiện việc tạ lễ khi cưới gả, đi xa về, hoặc thi đậu, nhậm chức. Nếu xác định được Thái Thuỷ Tổ 太始祖 thì xây nhà thờ cụ này gọi là Khởi nguyên đường 起元堂.
Nhà thờ họ phổ biến trong người Việt tại đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ. Với mỗi dòng họ, cùng với gia phả, nhà thờ họ là điểm tựa tinh thần của hiện tại từ quá khứ. Nhà thờ họ trường tồn tượng trưng cho một dòng họ bền vững, lâu đời. Đó là nơi lưu giữ những giá trị tinh thần to lớn; nơi lưu giữ gia phả, văn tự cổ cùng những sắc phong, tượng thờ, bài vị cùng những điển tích về dòng họ; là nơi lưu giữ những di vật của tổ tiên. Đây có thể được coi như một bảo tàng thu nhỏ của dòng họ bởi nó chứa đựng rất nhiều thông tin về dòng họ. Trường hợp họ nghèo chưa có tiền xây nhà thờ họ thì trưởng họ ở nơi đó là nhà thờ họ.
Chi họ lớn, sau khi đã phân chi thì nhà thờ của dòng trưởng nam sẽ là nới nơi thờ phụng từ đời ông thủy tổ, nơi giữ gia phả gốc, nhà thờ này sẽ được gọi là nhà thờ đại tôn 梁族祠堂. Các nhánh họ khác đều có nơi thờ cúng riêng từ đời ông tổ chi trưởng, gọi là nhà thờ chi họ (hay cửa họ) 宗堂.
Nhà thờ họ sẽ được xây cất với quy mô, kiến trúc phụ thuộc vào khả năng tài chính và đóng góp của các suất họ (từng thành viên nam) và theo địa vị xã hội của những người vai vế trong dòng họ.
Phần nội thất, gian giữa thường kiến trúc kiểu có “chuôi vồ” (mở rộng ra phía tường hậu) để xây bệ thờ.
Trên bệ đặt giá gương hoặc linh toạ (long ngai). Trên ngai để bài vị tổ tiên hoặc một ống quyển hay một khối hộp chữ nhật đứng được sơn son thiếp vàng, trong đó đựng gia phả tộc họ, bên ngoài phủ nhiễu điều. Phía dưới, trước mặt long ngai bày đồ tự khí và đặt lễ phẩm. Hằng năm, ngày giỗ tổ là dịp hội họp lớn nhất của tộc họ. Ngai sẽ là nơi để bài vị tổ tiên hoặc là một ống quyển, hoặc khối hộp chữ nhật sơn son thiếp vàng đứng chứa đựng gia phả, có phủ nhiễu điều bên ngoài. Nơi đây là nơi được xem là linh thiêng nhất, nơi mà linh hồn tổ tiên sẽ ngự trị.
Thần chủ (H: 神主, A: The tablet of the dead, P: La tablette du mort) thờ vĩnh viễn 永世辰主 và là của thuỷ tổ dòng họ 肇祖, tức Bài vị (H :簰位, A: The tablet of the deceased, P: La tablette du défunt) không chuyển giao cho ai 百世不祧支主. Gia từ chỉ có bài vị của bốn đời: cao, tằng, tổ, khảo. Hộp thần chủ được đặt trong long khám (龍位, có chạm hình rồng quấn xung quanh, được sơn son thếp vàng), chỉ khi nào cúng tế mới mở ra. Theo tục lệ “ngũ đại mai thần chủ” 五代埋神主, nên khi có ông mới mất, thần chủ vị cao tổ sẽ bị nhấc đi để nhường chỗ cho vị mới. Các vị tằng, tổ, khảo còn lại sẽ dần dần mỗi vị lên một bậc, vì có thêm vị khảo mới thay cho vị cũ được đưa lên hàng tổ. Có nhà đơn giản, không bày thần chủ, chỉ thờ bằng một bộ ỷ.
Đồ thờ (tự khí 祀器)như bát hương, lư trầm, độc đỉnh, quả bồng, hương án, tam sơn, tay ngai, long khám… bằng đồng hoặc bằng gỗ sơn son thếp vàng. Nhà giàu có thêm hoành phi, câu đối thếp vàng hoặc khảm xà cừ, bát bửu. Nhà bình thường có lư hương bằng sứ, đôi đèn nến sơn son, treo hoành biển đơn giản hơn và dán đôi liễn bằng giấy đề chữ Hán...
Nội thất bên trong nhà thờ được sắp đặt trang nghiêm, có thứ tự rõ ràng và sự sắp sếp có chủ ý thể hiện những thông tin về gia đình, dòng họ được kết cấu một cách chu đáo, đầy đủ để con cháu trong họ cũng như người ngoại tộc có thể hiểu khá tường tận về lịch sử của dòng họ cùng những con người, những danh nhân của dòng họ.
Dù túng thiếu cũng tránh mang cầm cố đồ thờ. Trước đây, khi người nghèo vay nợ đến 30 tháng chạp chưa có tiền trả, chủ nợ thuê nặc nô (lưu manh chuyên đi đòi nợ thuê) đến nhà con nợ ngồi lên bàn thờ hoặc bắt nợ bằng thần chủ gia tiên.
2. Vấn đề xây nhà thờ thế nào cần dựa vào : Mục đích; Sự đồng thuận của quan viên họ; Địa điểm; Khả năng, nguồn tài chính, nhân công,; Kiến trúc…Việc xây dựng nhà từ đường là nhu cầu thiêng liêng, bức thiết của dòng họ; đượ tiến hành nghiêm túc, giữ mục tiêu văn hóa, không vụ lợi và luôn tôn trọng yếu tố thiêng liêng thuộc lỉnh vực tâm linh của dòng họ .
Lễ Ký xưa đã quy định về nhà thờ tổ như sau:
– Nhà thờ tổ to nhỏ tùy theo giai cấp và chức tước.
– Nhà thờ tổ của bậc Thiên tử có bảy miếu: ba miếu ở phía bắc gọi là Chiêu, ba miếu ở phía phía nam gọi là Mục, và một miếu ở phía Tây, để thờ vị Thái tổ đã lập ra dòng họ.
– Nhà thờ của các bậc chư hầu có năm miếu thờ: hai miếu ở phía bắc gọi là Chiêu, hai miếu ở phía nam gọi là Mục, và một miếu ở phía tây thờ vị Thái tổ được vua phong hầu và ban cấp Thái ấp.
– Nhà thờ của bậc đại phu có ba miếu: một miếu ở phía bắc gọi là Chiêu, một miếu ở phía nam gọi là Mục và một miếu ở phía tây thờ vị Thái tổ.
– Nhà thờ của các bậc quan sĩ, chỉ có một miếu.
– Thứ dân không có miếu thờ riêng và thờ tổ tiên ngay trong nhà.
Ngày nay, các quy định trên đã nới lỏng. Theo đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, nếu chưa có hoặc Từ đường đã xuống cấp thì con cháu toàn dòng họ tham gia ý kiến và nhiệt liệt hưởng ứng (trong việc xây mới, trùng tu, tôn tạo, sửa chữa).
3. Theo cá nhân tôi trong thời hiện đại, khi kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ thì Từ đường, việc họ, giỗ họ, góp họ, công đức họ, khuyến học của Họ cũng đã khác ngày xưa và cần phải đổi mới rất nhiều. Do vậy Từ đường cần bổ sung chức năng và có thể gồm các chức năng như sau :
- Gốc nhà thờ họ là để thờ Thuỷ tổ hoặc thờ vọng về Thuỷ tổ họ mình.
- Nơi tiếp nhận công đức của con cháu (nội, ngoại) xa quê mà ở quê gốc không con ruột thịt. Ví dụ từ ngày có Từ đường Phạm tộc, Lương tộc ở quê mỗi dịp đi công tác qua anh em tôi đều vào dâng hương và hỏi thăm bà con đồng tộc.
- Bảo tàng dòng họ, trong đó nên ghi Danh các Liệt sĩ, các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, những người có công với nước, với dân hoặc lưu giữ Chứng chỉ của Đảng và Nhà nước những người làm to hoặc thành Danh của dòng họ mình .
- Nhà văn hoá, lưu giữ hình ảnh, hiện vật, tổ chức nói chuyện về truyền thống dòng Họ mình, những gương sáng, những nết tốt cần nêu gương cho toàn họ học tập, Nơi nêu gương học tập tốt và thành tích xuất sắc cần khuyến học, cần ghi Danh những người đỗ đạt, vượt khó học giỏi.. .
- Hội trưòng: Nơi gặp gỡ để bàn việc Họ. Nếu tụ tập ở một nhà nào cũng rất chật chội. Có việc gì cần bàn kéo ra nhà thờ họ bàn việc riêng của họ là hợp lý. Có thể cểi họp trưởng chi , hoặc chỉ họp hội đồng gia tộc hoặc họp toàn Họ.
4. Từ đường Lương tộc:
Trước kia Từ đường thế nào, ở đâu, dựng bao giờ chưa rõ. Gia phả Lương Hoàn có chép là cụ Quản (1806-1886) có “hưng công xây dựng Từ đường” nhưng không ghi năm và không rõ đây là nhà thờ Họ hay nhà thờ riêng của ngành cụ Thiệu. Đồng thời đoạn chép về cụ Tuần Ngoạn (đời thứ Tư, 1840-1905) sau khi được phong Chánh Tuần huyện (Giáp Thân 1884) đã trùng tu Từ đường vào năm sau. Đến tháng 10 Bính Tuất (1886), Từ đường bị “phỉ đảng” thiêu phá và bắt đi một người con gái 6 tuổi tên Thôi năm sau gian đảng lại phá tiếp. Đến năm Thành Thái thứ 7 (Ất Mùi 1895) cụ hợp cùng các Chi tái tạo Từ đường.
Gia phả ngành Ba chép: Truyền rằng vào đời thứ Năm, Cụ Bá Ổn cùng họ mạc đã dựng lên ngôi nhà gỗ Lim 3 gian dùng làm nơi tưởng vọng tổ tiên của dòng họ. Đầu kháng chiến trong một trận càn, Pháp đã đốt cháy (có lẽ đây là trận càn vào Khu Hoàng Diệu hồi 14 tháng 7 Đinh Hợi (29/8/1947). Trong CCRĐ nền Từ đường được chia cho từng hộ. Từ đó, do hoàn cảnh kinh tế và xu thế chung nên việc thờ cúng đều tiến hành tại nhà Trưởng họ mà không có Từ đường. Đồ Tự khí đã sắm cũng bị cháy, thất lạc không còn giữ được. Riêng ngành Lương Hoàn còn giữ được đất và dựng nhà thờ họ từ đời thứ ba bởi cụ Lương Công Quản (thân phụ Cụ Tuần Ngoạn) và bảo tồn được trong CCRĐ sau 1954 .
Từ khi đất nước thống nhất, đặc biệt từ sau 1986, nhu cầu cả họ có nơi thờ phụng, gặp mặt con cháu để tưởng niệm Tổ ngày càng trở nên bức xúc và có điều kiện thực hiện hơn. Trong dịp Chạp Tổ Rằm tháng Giêng Kỉ Mão (1999) toàn họ đã nhất trí thực hiện việc xây Nhà thờ Tổ. Đây là sự Tái thiết Từ đường chứ không phải Trùng tu, Phục chế hay Tôn tạo. Địa điểm được chọn là gần nền Từ đường cũ (phía sau nhà Trưởng họ). Kinh phí do con cháu đóng góp theo xuất trai đinh và Công Đức tự nguyện. Nhìn chung trong họ chưa mấy ai giầu trội và việc huy động chưa được đều khắp tới các chi phái ở xa quê nên kinh phí thu được còn hạn hẹp.
Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 3/1999 công trình được khởi móng, nhiều con cháu ở quê đã trực tiếp góp sức thi công. Ngày 12 tháng 3 Canh Thìn (16/4/2000) khánh thành với tổng chi phí khoảng 25 000 000,0đ. Đó là một ngôi Từ đường còn khiêm nhường so với Từ đường của ngay một số họ trong khu vực cả về quy mô và hình thức. Do đất chật nên không đủ xây Tam quan, Bình phong. Riêng Tiền sảnh và Chính tịch đều chung trong một ngôi nhà ngói 3 gian. Song như vậy cũng mang nhiều ý nghĩa và đáp ứng được nguyện vọng tâm linh của quan viên họ. Trong Từ đường đã có: Hương án, Tay Ngai, Long khám, Câu đối; nhưng chưa có Hoành phi; Tự khí thì còn tương đối sơ sài, riêng Phả đồ dòng họ chưa đầy đủ, thiếu một số Chi, Phái. Sổ Vàng Công Đức ghi tên nhiều con cháu xa quê, nhiều cháu gái, có cả những cháu Ngoại 2-4 đời. Việc xây Từ đường khơi mào bởi các bậc cao niên nhưng có sự đóng góp chung của bao người, từ giầu đến nghèo, từ xa đến gần:
Trọng kẻ góp công, nhớ người góp của cùng lo chung đạo Hiếu,
Ơn người khai phá, khuyên lớp đời sau mãi giữ trọn lòng Nhân.
Mọi đóng góp (đất, tiền của, công sức, hiện vật, ý tưởng, thiết kế...) của bà con dù nhiều ít đều được cấp giấy ghi nhận công đức, ghi chép minh bạch lưu danh vào sổ vàng dòng họ, lập bia lưu niệm tại từ đường:
Góp quỹ xây dựng Tổ đường
Trồng cây Phúc Lộc nối dòng cháu con.
Hôm khánh thành con cháu gần xa có khoảng 180 người về dự . Dịp này ở Lào Cai tôi đưa: Mẹ tôi, Thường, Thức, Luận, Quang về dự và công đức 1. 100.000đ. Vì có Tân ước của Cộng đồng Vatican II (1968) nên nhiều con cháu theo Công giáo cũng tham gia Giỗ họ, Công Đức xây dựng Từ đường. Con cháu các Chi đã rước các vị Tổ Chi 第支祖 về Hợp tế 合祭.
Rằm tháng Giêng (丁亥年 正月大 丙申日, tức là vào Thứ Bẩy, ngày 03 tháng 03 năm 2007), đại diện 15 hộ Lương tộc trên Lào Cai tiến hành việc Giỗ vọng 望拜 thủy tổ Lương tộc 粱皋密肇祖 粱公宅 tại nhà Lương Đức Thân ở thôn An Phong. Những người dự họp đã nhất trí là sẽ cùng Cung tiến từ đường Lương tộc tại quê bức Hoành phi mang dòng chữ 海德山功 (“Hải Đức Sơn Công” có nghĩa là “Công Đức Tổ tiên dài cao như núi, rộng sâu như biển. Trong đó vừa có chữ 功 “Công”, chữ 德”Đức” là tên lót trước kia và hiện nay của dòng tộc, lại có chữ 海 “Hải” chỉ nơi quê gốc, chữ 山”Sơn” chỉ một phái con cháu khai hoang ở Lào Cai). Mọi người cùng góp tiền được 1.100.000,0 đ. Tôi nhận và có trách nhiệm thực hiện việc đặt làm và cung tiến. Sau đó một số con cháu nghe tin đã cung tiến tiếp, được 2.180.000,00đ. LĐM báo cáo Trưởng họ và nhờ LĐ Vương đặt Xưởng đồ thờ Quốc Tuấn thực hiện. Mọi việc hoàn tất vào 16/5 (30/3/Đinh Hợi). Các chi ở quê có cử đại diện đón nhận trang trọng. Tôi đặt kích thước vào cung Quan Lộc” nên chiều dài không khít giữa 2 cột do vậy có ý chưa vui. Ngày 03/6/2007 (18/4) LĐM trên đường đi công tác từ Nam Định đã về thanh toán đủ. Cùng thời kì này Trưởng họ cũng đã nhận công đức của một chi bên Tiên Lãng và đã hoàn thành bức với dòng: Quang tiền dụ hậu 光前裕後 tức “Rạng đời trước, sáng cho đời sau” kèm đôi câu đối: 木出千枝由有本,水流萬派溯從源 “Mộc xuất thiên chi do hữu bản, Thuỷ lưu vạn phái tố tòng nguyên” tức: Cây chung nghìn nhánh sinh từ gốc, Nước chẩy muôn dòng phát tại nguồn.
1.Từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha), nơi được coi như nhà Tổ 茄組, nhà quy tụ con cháu dòng họ, đồng thời cũng là nơi thờ tự ông bà tổ tiên, nhất là các ngày giỗ trọng. Đây cũng là nơi Hội đồng gia tộc hội họp, giải quyết việc họ; là nơi con cháu thực hiện việc tạ lễ khi cưới gả, đi xa về, hoặc thi đậu, nhậm chức. Nếu xác định được Thái Thuỷ Tổ 太始祖 thì xây nhà thờ cụ này gọi là Khởi nguyên đường 起元堂.
Nhà thờ họ phổ biến trong người Việt tại đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ. Với mỗi dòng họ, cùng với gia phả, nhà thờ họ là điểm tựa tinh thần của hiện tại từ quá khứ. Nhà thờ họ trường tồn tượng trưng cho một dòng họ bền vững, lâu đời. Đó là nơi lưu giữ những giá trị tinh thần to lớn; nơi lưu giữ gia phả, văn tự cổ cùng những sắc phong, tượng thờ, bài vị cùng những điển tích về dòng họ; là nơi lưu giữ những di vật của tổ tiên. Đây có thể được coi như một bảo tàng thu nhỏ của dòng họ bởi nó chứa đựng rất nhiều thông tin về dòng họ. Trường hợp họ nghèo chưa có tiền xây nhà thờ họ thì trưởng họ ở nơi đó là nhà thờ họ.
Chi họ lớn, sau khi đã phân chi thì nhà thờ của dòng trưởng nam sẽ là nới nơi thờ phụng từ đời ông thủy tổ, nơi giữ gia phả gốc, nhà thờ này sẽ được gọi là nhà thờ đại tôn 梁族祠堂. Các nhánh họ khác đều có nơi thờ cúng riêng từ đời ông tổ chi trưởng, gọi là nhà thờ chi họ (hay cửa họ) 宗堂.
Nhà thờ họ sẽ được xây cất với quy mô, kiến trúc phụ thuộc vào khả năng tài chính và đóng góp của các suất họ (từng thành viên nam) và theo địa vị xã hội của những người vai vế trong dòng họ.
Phần nội thất, gian giữa thường kiến trúc kiểu có “chuôi vồ” (mở rộng ra phía tường hậu) để xây bệ thờ.
Trên bệ đặt giá gương hoặc linh toạ (long ngai). Trên ngai để bài vị tổ tiên hoặc một ống quyển hay một khối hộp chữ nhật đứng được sơn son thiếp vàng, trong đó đựng gia phả tộc họ, bên ngoài phủ nhiễu điều. Phía dưới, trước mặt long ngai bày đồ tự khí và đặt lễ phẩm. Hằng năm, ngày giỗ tổ là dịp hội họp lớn nhất của tộc họ. Ngai sẽ là nơi để bài vị tổ tiên hoặc là một ống quyển, hoặc khối hộp chữ nhật sơn son thiếp vàng đứng chứa đựng gia phả, có phủ nhiễu điều bên ngoài. Nơi đây là nơi được xem là linh thiêng nhất, nơi mà linh hồn tổ tiên sẽ ngự trị.
Thần chủ (H: 神主, A: The tablet of the dead, P: La tablette du mort) thờ vĩnh viễn 永世辰主 và là của thuỷ tổ dòng họ 肇祖, tức Bài vị (H :簰位, A: The tablet of the deceased, P: La tablette du défunt) không chuyển giao cho ai 百世不祧支主. Gia từ chỉ có bài vị của bốn đời: cao, tằng, tổ, khảo. Hộp thần chủ được đặt trong long khám (龍位, có chạm hình rồng quấn xung quanh, được sơn son thếp vàng), chỉ khi nào cúng tế mới mở ra. Theo tục lệ “ngũ đại mai thần chủ” 五代埋神主, nên khi có ông mới mất, thần chủ vị cao tổ sẽ bị nhấc đi để nhường chỗ cho vị mới. Các vị tằng, tổ, khảo còn lại sẽ dần dần mỗi vị lên một bậc, vì có thêm vị khảo mới thay cho vị cũ được đưa lên hàng tổ. Có nhà đơn giản, không bày thần chủ, chỉ thờ bằng một bộ ỷ.
Đồ thờ (tự khí 祀器)như bát hương, lư trầm, độc đỉnh, quả bồng, hương án, tam sơn, tay ngai, long khám… bằng đồng hoặc bằng gỗ sơn son thếp vàng. Nhà giàu có thêm hoành phi, câu đối thếp vàng hoặc khảm xà cừ, bát bửu. Nhà bình thường có lư hương bằng sứ, đôi đèn nến sơn son, treo hoành biển đơn giản hơn và dán đôi liễn bằng giấy đề chữ Hán...
Nội thất bên trong nhà thờ được sắp đặt trang nghiêm, có thứ tự rõ ràng và sự sắp sếp có chủ ý thể hiện những thông tin về gia đình, dòng họ được kết cấu một cách chu đáo, đầy đủ để con cháu trong họ cũng như người ngoại tộc có thể hiểu khá tường tận về lịch sử của dòng họ cùng những con người, những danh nhân của dòng họ.
Dù túng thiếu cũng tránh mang cầm cố đồ thờ. Trước đây, khi người nghèo vay nợ đến 30 tháng chạp chưa có tiền trả, chủ nợ thuê nặc nô (lưu manh chuyên đi đòi nợ thuê) đến nhà con nợ ngồi lên bàn thờ hoặc bắt nợ bằng thần chủ gia tiên.
2. Vấn đề xây nhà thờ thế nào cần dựa vào : Mục đích; Sự đồng thuận của quan viên họ; Địa điểm; Khả năng, nguồn tài chính, nhân công,; Kiến trúc…Việc xây dựng nhà từ đường là nhu cầu thiêng liêng, bức thiết của dòng họ; đượ tiến hành nghiêm túc, giữ mục tiêu văn hóa, không vụ lợi và luôn tôn trọng yếu tố thiêng liêng thuộc lỉnh vực tâm linh của dòng họ .
Lễ Ký xưa đã quy định về nhà thờ tổ như sau:
– Nhà thờ tổ to nhỏ tùy theo giai cấp và chức tước.
– Nhà thờ tổ của bậc Thiên tử có bảy miếu: ba miếu ở phía bắc gọi là Chiêu, ba miếu ở phía phía nam gọi là Mục, và một miếu ở phía Tây, để thờ vị Thái tổ đã lập ra dòng họ.
– Nhà thờ của các bậc chư hầu có năm miếu thờ: hai miếu ở phía bắc gọi là Chiêu, hai miếu ở phía nam gọi là Mục, và một miếu ở phía tây thờ vị Thái tổ được vua phong hầu và ban cấp Thái ấp.
– Nhà thờ của bậc đại phu có ba miếu: một miếu ở phía bắc gọi là Chiêu, một miếu ở phía nam gọi là Mục và một miếu ở phía tây thờ vị Thái tổ.
– Nhà thờ của các bậc quan sĩ, chỉ có một miếu.
– Thứ dân không có miếu thờ riêng và thờ tổ tiên ngay trong nhà.
Ngày nay, các quy định trên đã nới lỏng. Theo đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, nếu chưa có hoặc Từ đường đã xuống cấp thì con cháu toàn dòng họ tham gia ý kiến và nhiệt liệt hưởng ứng (trong việc xây mới, trùng tu, tôn tạo, sửa chữa).
3. Theo cá nhân tôi trong thời hiện đại, khi kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ thì Từ đường, việc họ, giỗ họ, góp họ, công đức họ, khuyến học của Họ cũng đã khác ngày xưa và cần phải đổi mới rất nhiều. Do vậy Từ đường cần bổ sung chức năng và có thể gồm các chức năng như sau :
- Gốc nhà thờ họ là để thờ Thuỷ tổ hoặc thờ vọng về Thuỷ tổ họ mình.
- Nơi tiếp nhận công đức của con cháu (nội, ngoại) xa quê mà ở quê gốc không con ruột thịt. Ví dụ từ ngày có Từ đường Phạm tộc, Lương tộc ở quê mỗi dịp đi công tác qua anh em tôi đều vào dâng hương và hỏi thăm bà con đồng tộc.
- Bảo tàng dòng họ, trong đó nên ghi Danh các Liệt sĩ, các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, những người có công với nước, với dân hoặc lưu giữ Chứng chỉ của Đảng và Nhà nước những người làm to hoặc thành Danh của dòng họ mình .
- Nhà văn hoá, lưu giữ hình ảnh, hiện vật, tổ chức nói chuyện về truyền thống dòng Họ mình, những gương sáng, những nết tốt cần nêu gương cho toàn họ học tập, Nơi nêu gương học tập tốt và thành tích xuất sắc cần khuyến học, cần ghi Danh những người đỗ đạt, vượt khó học giỏi.. .
- Hội trưòng: Nơi gặp gỡ để bàn việc Họ. Nếu tụ tập ở một nhà nào cũng rất chật chội. Có việc gì cần bàn kéo ra nhà thờ họ bàn việc riêng của họ là hợp lý. Có thể cểi họp trưởng chi , hoặc chỉ họp hội đồng gia tộc hoặc họp toàn Họ.
4. Từ đường Lương tộc:
Trước kia Từ đường thế nào, ở đâu, dựng bao giờ chưa rõ. Gia phả Lương Hoàn có chép là cụ Quản (1806-1886) có “hưng công xây dựng Từ đường” nhưng không ghi năm và không rõ đây là nhà thờ Họ hay nhà thờ riêng của ngành cụ Thiệu. Đồng thời đoạn chép về cụ Tuần Ngoạn (đời thứ Tư, 1840-1905) sau khi được phong Chánh Tuần huyện (Giáp Thân 1884) đã trùng tu Từ đường vào năm sau. Đến tháng 10 Bính Tuất (1886), Từ đường bị “phỉ đảng” thiêu phá và bắt đi một người con gái 6 tuổi tên Thôi năm sau gian đảng lại phá tiếp. Đến năm Thành Thái thứ 7 (Ất Mùi 1895) cụ hợp cùng các Chi tái tạo Từ đường.
Gia phả ngành Ba chép: Truyền rằng vào đời thứ Năm, Cụ Bá Ổn cùng họ mạc đã dựng lên ngôi nhà gỗ Lim 3 gian dùng làm nơi tưởng vọng tổ tiên của dòng họ. Đầu kháng chiến trong một trận càn, Pháp đã đốt cháy (có lẽ đây là trận càn vào Khu Hoàng Diệu hồi 14 tháng 7 Đinh Hợi (29/8/1947). Trong CCRĐ nền Từ đường được chia cho từng hộ. Từ đó, do hoàn cảnh kinh tế và xu thế chung nên việc thờ cúng đều tiến hành tại nhà Trưởng họ mà không có Từ đường. Đồ Tự khí đã sắm cũng bị cháy, thất lạc không còn giữ được. Riêng ngành Lương Hoàn còn giữ được đất và dựng nhà thờ họ từ đời thứ ba bởi cụ Lương Công Quản (thân phụ Cụ Tuần Ngoạn) và bảo tồn được trong CCRĐ sau 1954 .
Từ khi đất nước thống nhất, đặc biệt từ sau 1986, nhu cầu cả họ có nơi thờ phụng, gặp mặt con cháu để tưởng niệm Tổ ngày càng trở nên bức xúc và có điều kiện thực hiện hơn. Trong dịp Chạp Tổ Rằm tháng Giêng Kỉ Mão (1999) toàn họ đã nhất trí thực hiện việc xây Nhà thờ Tổ. Đây là sự Tái thiết Từ đường chứ không phải Trùng tu, Phục chế hay Tôn tạo. Địa điểm được chọn là gần nền Từ đường cũ (phía sau nhà Trưởng họ). Kinh phí do con cháu đóng góp theo xuất trai đinh và Công Đức tự nguyện. Nhìn chung trong họ chưa mấy ai giầu trội và việc huy động chưa được đều khắp tới các chi phái ở xa quê nên kinh phí thu được còn hạn hẹp.
Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 3/1999 công trình được khởi móng, nhiều con cháu ở quê đã trực tiếp góp sức thi công. Ngày 12 tháng 3 Canh Thìn (16/4/2000) khánh thành với tổng chi phí khoảng 25 000 000,0đ. Đó là một ngôi Từ đường còn khiêm nhường so với Từ đường của ngay một số họ trong khu vực cả về quy mô và hình thức. Do đất chật nên không đủ xây Tam quan, Bình phong. Riêng Tiền sảnh và Chính tịch đều chung trong một ngôi nhà ngói 3 gian. Song như vậy cũng mang nhiều ý nghĩa và đáp ứng được nguyện vọng tâm linh của quan viên họ. Trong Từ đường đã có: Hương án, Tay Ngai, Long khám, Câu đối; nhưng chưa có Hoành phi; Tự khí thì còn tương đối sơ sài, riêng Phả đồ dòng họ chưa đầy đủ, thiếu một số Chi, Phái. Sổ Vàng Công Đức ghi tên nhiều con cháu xa quê, nhiều cháu gái, có cả những cháu Ngoại 2-4 đời. Việc xây Từ đường khơi mào bởi các bậc cao niên nhưng có sự đóng góp chung của bao người, từ giầu đến nghèo, từ xa đến gần:
Trọng kẻ góp công, nhớ người góp của cùng lo chung đạo Hiếu,
Ơn người khai phá, khuyên lớp đời sau mãi giữ trọn lòng Nhân.
Mọi đóng góp (đất, tiền của, công sức, hiện vật, ý tưởng, thiết kế...) của bà con dù nhiều ít đều được cấp giấy ghi nhận công đức, ghi chép minh bạch lưu danh vào sổ vàng dòng họ, lập bia lưu niệm tại từ đường:
Góp quỹ xây dựng Tổ đường
Trồng cây Phúc Lộc nối dòng cháu con.
Hôm khánh thành con cháu gần xa có khoảng 180 người về dự . Dịp này ở Lào Cai tôi đưa: Mẹ tôi, Thường, Thức, Luận, Quang về dự và công đức 1. 100.000đ. Vì có Tân ước của Cộng đồng Vatican II (1968) nên nhiều con cháu theo Công giáo cũng tham gia Giỗ họ, Công Đức xây dựng Từ đường. Con cháu các Chi đã rước các vị Tổ Chi 第支祖 về Hợp tế 合祭.
Rằm tháng Giêng (丁亥年 正月大 丙申日, tức là vào Thứ Bẩy, ngày 03 tháng 03 năm 2007), đại diện 15 hộ Lương tộc trên Lào Cai tiến hành việc Giỗ vọng 望拜 thủy tổ Lương tộc 粱皋密肇祖 粱公宅 tại nhà Lương Đức Thân ở thôn An Phong. Những người dự họp đã nhất trí là sẽ cùng Cung tiến từ đường Lương tộc tại quê bức Hoành phi mang dòng chữ 海德山功 (“Hải Đức Sơn Công” có nghĩa là “Công Đức Tổ tiên dài cao như núi, rộng sâu như biển. Trong đó vừa có chữ 功 “Công”, chữ 德”Đức” là tên lót trước kia và hiện nay của dòng tộc, lại có chữ 海 “Hải” chỉ nơi quê gốc, chữ 山”Sơn” chỉ một phái con cháu khai hoang ở Lào Cai). Mọi người cùng góp tiền được 1.100.000,0 đ. Tôi nhận và có trách nhiệm thực hiện việc đặt làm và cung tiến. Sau đó một số con cháu nghe tin đã cung tiến tiếp, được 2.180.000,00đ. LĐM báo cáo Trưởng họ và nhờ LĐ Vương đặt Xưởng đồ thờ Quốc Tuấn thực hiện. Mọi việc hoàn tất vào 16/5 (30/3/Đinh Hợi). Các chi ở quê có cử đại diện đón nhận trang trọng. Tôi đặt kích thước vào cung Quan Lộc” nên chiều dài không khít giữa 2 cột do vậy có ý chưa vui. Ngày 03/6/2007 (18/4) LĐM trên đường đi công tác từ Nam Định đã về thanh toán đủ. Cùng thời kì này Trưởng họ cũng đã nhận công đức của một chi bên Tiên Lãng và đã hoàn thành bức với dòng: Quang tiền dụ hậu 光前裕後 tức “Rạng đời trước, sáng cho đời sau” kèm đôi câu đối: 木出千枝由有本,水流萬派溯從源 “Mộc xuất thiên chi do hữu bản, Thuỷ lưu vạn phái tố tòng nguyên” tức: Cây chung nghìn nhánh sinh từ gốc, Nước chẩy muôn dòng phát tại nguồn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!