1. Sao Chiếu mệnh:
Có 9 sao, mỗi người hàng năm đều có sao chiếu mệnh, có sao chiếu tốt, sao chiếu bị xấu. Do đó nên dân gian thường làm lễ Dâng sao giải hạn đầu năm tại nhà hoặc hàng tháng tại chùa. Khi giải hạn mỗi sao có cách bài trí nến, mầu, nội dung Bài vị khác nhau với những ngày nhất định như ghi ở Bảng sau.
Việc thực thi Dâng sao giải hạn phải tự nhiên, kiên trì, chu đáo và thành tâm và như vậy công chức khó mà thực hiện. Nhưng dù sao tôi vẫn tìm hiểu và cũng từng ứng dụng trong nhiều năm nên ghi lại đây.
Bảng 1. Sao trong năm:
NAM | TUỔI (thao ÂM LỊCH) | NỮ |
La Hầu | 10, 19, 28, 37, 46, 55, 64, 73, 82 | Kế Đô |
Thổ Tú | 11, 20, 29, 38, 47, 56, 65, 74, 83 | Vân Hớn |
Thủy Diệu | 12, 21, 30, 39, 48, 57, 66, 75, 84 | Mộc Đức |
Thái Bạch | 13, 22, 31, 40, 49, 58, 67, 76, 85 | Thái Âm |
Thái Dương | 14, 23, 32, 41, 50, 59, 68, 77, 86 | Thổ Tú |
Vân Hớn | 15, 24, 33, 42, 51, 60, 69, 78, 87 | La Hầu |
Kế Đô | 16, 25, 34, 43, 52, 61, 70, 79, 88 | Thái Dương |
Thái Âm | 17, 26, 35, 44, 53, 62, 71, 80, 89 | Thái Bạch |
Mộc Đức | 18, 27, 36, 45, 54, 63, 72, 81, 90 | Thủy Diệu |
Tính chất tốt xấu cụ thể của Cửu diệu 九曜:
1- La Hầu : khẩu thiệt tinh, chủ về ăn nói thị phi, hay liên quan đến công quyền, nhiều chuyện phiền muộn, bệnh tật về tai mắt, máu huyết. Nam rất kỵ, nữ cũng bi ai chẳng kém. Kỵ tháng giêng, tháng bảy.
2- Kế Đô : hung tinh, kỵ tháng ba và tháng chín nhất là nữ giới. Chủ về ám muội, thị phi, đau khổ, hao tài tốn của, họa vô đơn chí; trong gia đình có việc mờ ám, đi làm ăn xa lại có tài lộc mang về.
3- Thái Dương : Thái dương tinh (măt trời) tốt vào tháng sáu, tháng mười, nhưng không hợp nữ giới. Chủ về an khang thịnh vượng, nam giới gặp nhiều tin vui, tài lộc còn nữ giới lại thường gặp tai ách.
4- Thái Âm : Chủ dương tinh (mặt trăng), tốt cho cả nam lẫn nữ vào tháng chín nhưng kỵ tháng mười. Nữ có bệnh tật, không nên sinh đẻ̉ e có nguy hiểm. Chủ về danh lợi, hỉ sự.
5- Mộc Đức (Mộc tinh) : Triều ngươn tinh, chủ về hôn sự, nữ giới đề phòng tật bệnh phát sinh nhất là máu huyết, nam giới coi chừng bệnh về mắt. Tốt vào tháng mười và tháng chạp.
6- Vân Hán (Hỏa tinh) : Tai tinh, chủ về tật ách, xấu vào tháng hai và tháng tám. Nam gặp tai hình, phòng thương tật, bị kiện thưa bất lợi; nữ không tốt về thai sản.
7- Thổ Tú (Thổ tinh) : Ách Tinh, chủ về tiểu nhân, xuất hành đi xa không lợi, có kẻ ném đá giấu tay sinh ra thưa kiện, gia đạo không yên, chăn nuôi thua lỗ. Xấu tháng tư, tháng tám.
8- Thái Bạch (Kim tinh) : Triều dương tinh, sao này xấu cần giữ gìn trong công việc kinh doanh, có tiểu nhân quấy phá, hao tán tiền của, đề phòng quan sự. Xấu vào tháng năm và kỵ màu trắng quanh năm.
9- Thủy Diệu (Thủy tinh) : Phước lôc tinh, tốt nhưng cũng kỵ tháng tư và tháng tám. Chủ về tài lộc hỉ. Không nên đi sông biển, giữ gìn lời nói (nhất là nữ giới) nếu không sẽ có tranh cãi, lời tiếng thị phi đàm tiếu.
2. Nguồn gốc của lễ giải hạn:
Theo quan niệm của người Á Đông, trong vòng quay của sao Thái Tuế, mỗi người sinh ra đều có một vì sao chiếu mệnh tùy theo năm. Có tất cả 24 vì sao quy tụ thành 9 chòm: La Hầu, Thổ Tú, Thủy Diệu, Thái Bạch, Thái Dương, Vân Hớn, Kế Đô, Thái Âm, Mộc Đức. Trong 9 ngôi sao này, có sao tốt, có sao xấu. Năm nào bị sao xấu chiếu mệnh, con người sẽ gặp phải chuyện không may, ốm đau, bệnh tật. . . gọi là vận hạn. Nặng nhất là “Nam La hầu, nữ Kế đô”, hay “Thái bạch sạch cửa nhà”. Còn nếu năm đó được sao tốt chiếu mệnh thì sẽ làm lễ dâng sao nghinh đón.
3. Thủ tục chung của Lễ cầu an và giải hạn:
Khi giải hạn mỗi sao có cách bài trí nến, mầu, nội dung Bài vị khác nhau, lời khấn khác nhau với những ngày nhất định.Tam quốc diễn nghĩa có chép chuyện Khổng Minh (rất tinh thông) tự giải hạn cho mình bằng cách cúng sao, song bất thành do Gia Cát quân sư đã tính đúng nhưng mệnh hết, cây Chủ Đăng trong lễ Nhương Tinh trên gò Ngũ Trượng, bị Ngụy Diên chạy vào báo giặc đến làm tắt. Do vậy một con người cẩn thận như Khổng Minh vẫn bị người có “tướng Phản” bởi cục cốt sau gáy hoàn tất cái lập trình viết sẵn của Định mệnh !
Thông thường Lễ giải hạn không quá phức tạp. Một số Chủa quy ước: Sau khi ghi tên, nộp lệ phí, vào giờ đã định của các ngày sao chiếu mệnh xuất hiện, những ai thuộc sao nào thì đến nghe nhà chùa đọc kinh, đọc tên mình, nhận sớ và hoá vàng là hoàn tất. Mỗi đàn chỉ cúng cho khoảng mươi gia đình nên khá kỹ lưỡng. Sư tụng kinh cầu an xong thì đọc sớ từng gia đình, trong đó từng người ghi rõ tuổi, địa chỉ, sao nào chiếu… Nhiều người còn cúng cho cả con rể, con dâu là người nước ngoài, hiện đang sinh sống ở các nước khác trên thế giới. Trường hợp này nhà chùa thường ghi quốc ngữ vào lá sớ Hán Nôm. Văn khấn sẽ được thầy cúng đọc trong khi lễ.
Cũng có người cho rằng, không được đọc sớ riêng của mỗi gia đình, tên tuổi từng người thì vẫn chưa yên lòng. Vì vậy, nhiều nhóm gia đình hợp đồng với các chùa, thường là chùa quen.
Mỗi tín chủ dự lễ có thể khấn các bài khác nhau tùy theo nguyện vọng, nhưng thường có đầy đủ các thông tin của một bài khấn:
Hôm nay là ngày...tháng....năm, tín chủ con là: Lương Đức Mến, tuổi Ất Mùi, hiện ngụ tại: Số nhà 328 đường Hoàng Liên, thuộc địa phận Tổ 22 Phường Kim Tân, Thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, nước CHXHCN Việt Nam; năm nay con gặp sao ( tùy tuổi) chiếu mệnh;
Vâng theo lệ cũ, Tín chủ nhất tâm sửa biện lễ mọn: Trai bàn tỉnh quả, minh y, Kim ngân, trà, tửu phù lưu, Cơm canh, nải quả (tùy lễ vật);
Cúi mong chư vị, bạc lễ chấp kỳ; Giải hạn nhân tinh, giáng trần ban Phúc.
Cho gia đình con Khang ninh trường Thọ; Vận hạn tiêu tan, Gia nội hanh xương.
Chúng con chí thiết chí thành, một lòng bái lạy.
Nam Tào Bắc Đẩu tinh quân
Thái Bạch, Thi Tuế tinh quân
Bắc cực Tử vi Đại Đức tinh quân
Văn Xương Văn Khúc tinh quân
Nhị thập Bát Tú, Ngũ Hành tinh quấn
La Hầu, Kế Đô tinh quân
Ngày rằm Nguyên Tiêu, theo lệ trần tục, tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả thắp nén tâm hương dâng lên trước án, kính mời các vị lai lâm hâm hưởng, phù hộ cho toàn gia chúng con luôn luôn mạnh khoẻ, mọi sự bình an, vạn sự tối lành, gia đình hoà thuận, trên bảo dưới nghe.
Chiếu thắp cõi trần.
Xin các tinh quân.
Lưu ân lưu phúc.
Lễ tuy mọn bạc.
Lòng thành có dư.
Mệnh vị an cư.
Thân cung khang thái.
4. Thủ tục cúng dâng các Sao cụ thể:
Tuy việc cúng dâng Sao giống nhau ở : Lễ vật gồm: Hương, Hoa, Quả (5 loại), Trầu, nước; Vàng, Tiền (10); Gạo, Muối; lập đàn tràng Tam cấp (Trời, Phật, Tiên, Thánh - Sao thủ mệnh - Bá thí cho chúng sinh); Lễ xong hóa cả tiền, vàng, văn khấn, bài vị.
Ngày nay, khi phải vật lộn với những khó khăn và áp lực, con người lại càng quan tâm hơn đến vấn đề tâm linh, đặc biệt là khi gặp rủi ro trong làm ăn, buôn bán, thi cử, mất mùa hay thậm chí trong tình duyên. Chính vì thế lễ giải hạn đã bị lạm dụng khiến các nghi lễ trở nên rườm rà và được tổ chức một cách vô lối, nặng khoa trương và kiếm tiền.
Những gia đình giàu có sẵn sàng bỏ hàng triệu, thậm chí hàng chục triệu để thuê thầy cúng về làm lễ cho gia đình làm ăn phát đạt, buôn bán “đầu xuôi đuôi lọt”. Những gia đình không có điều kiện thì vì quá “tín tâm” nên sẵn sàng bán cả tài sản trong nhà đi để làm lễ.
Chưa kể đến tình trạng những kẻ xấu lợi dụng những tình trạng này để thực hiện những mưu đồ xấu xa như: móc trộm đồ của con nhang, đệ tử thập phương vào những ngày đông đúc, xuất hiện các dịch vụ khấn thuê hay thậm chí còn tuyên truyền những thông tin thiếu lành mạnh hòng làm hoang mang trong dân chúng. Ngay cả vùng thôn quê vốn chẳng có chùa tự dưng xuất hiện mấy người xưng là “được lộc Thánh” tổ chức giải hạn đầu năm khá rôm. Nhưng xem ra lời khấn thì sai, lễ sắm chẳng theo tập tục nào…nên tốn kém mà có khi càng lễ càng mê.
Như vâỵ, lễ giải hạn xuất phát điểm là một tục lệ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc nhưng hiện nay nhiều nơi quá lạm dụng nên không còn nguyên giá trị và có nguy cơ trở thành một hủ tục trong giới tâm linh.
Hơn nữa, tên của Lễ nghi này nếu được gọi đầy đủ thì nên gọi là: "Lễ trình công báo đức xin các vị tinh tú cắt chướng giải hạn" bởi trong lúc Thầy làm lễ gia chủ cũng nên tấu trình công đức của mình để các Ngài xem xét cắt chướng giải và phải phát nguyện tiếp tục tích lũy công đức... giải nghiệp chuyển nghiệp, giải hạn chuyển hạn...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!