[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


13 tháng 5 2009

QUỐC HIỆU NƯỚC TA qua các thời

QUỐC GIA: thực thể pháp lí bao gồm 3 yếu tố cấu thành: lãnh thổ (yếu tố vật chất, cơ sở vật chất), dân cư và quyền lực công cộng (các yếu tố tinh thần). QG là chủ thể cơ bản của luật quốc tế. Chủ quyền QG là đặc trưng cơ bản, quan trọng của QG. Theo pháp luật quốc tế hiện đại, tất cả các QG đều bình đẳng về chủ quyền.
Còn QUỐC HIỆU: tên gọi chính thức của một nước và chính thể của một quốc gia. Thường được trình bày trên trang đầu văn bản chính thức của các cơ quan nhà nước. Quốc hiệu luôn là một trong những cái tên thiêng liêng nhất đối với mỗi dân tộc, mỗi con người. Quốc hiệu khẳng định sự tồn tại và chủ quyền của một quốc gia, thể hiện ý thức và niềm tự hào của mỗi dân tộc cũng như sự bình đẳng với các nước khác trên thế giới.
Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử đã dùng nhiều quốc hiệu (tên chính thức của quốc gia) khác nhau. Bên cạnh đó, cũng có những danh xưng được dùng chính thức hay không chính thức để chỉ vùng lãnh thổ thuộc quốc gia Việt Nam. Nếu như bên Bắc quốc, tên triều đại là tên nước (Đại Thanh quốc của nhà Thanh...) thì Việt Nam quốc hiệu có thể ổn định qua nhiều triều và tên triều đại là tên họ nắm vương quyền cai trị.

1.Văn Lang 文郎 được coi là quốc hiệu đầu tiên cho Việt Nam, tồn tại 2671 năm (2876 tCn - 258 tCn). Quốc hiệu này có nghĩa là : “cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông”. Kinh đô ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Lãnh thổ gồm khu vực đồng bằng Bắc Bộ và tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ.

2.Nước Âu Lạc 甌雒 (甌駱, 甌貉) được dựng lên năm 257 tCn, từ liên kết các bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán - An Dương Vương. Âu Lạc có lãnh thổ bao gồm lãnh thổ của Văn Lang trước đây và một phần đông nam Quảng Tây (Trung Quốc), kinh đô là Cổ Loa. Danh xưng này tồn tại 50 năm (257 tCn - 207 tCn).
Khoảng cuối thế kỷ III, đầu thế II tCn (năm 208 tCn hoặc 179 tCn), Triệu Đà (quận úy Nam Hải-nhà Tần) tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại, nhà nước Âu Lạc bị xóa sổ.
Theo Trương Thái Du, Âu Lạc là kí âm bằng Hán tự của từ “Đất nước - Xứ sở”. Ông cho rằng không tồn tại quốc gia Âu Lạc của An Dương Vương. Suốt vùng Lĩnh Nam gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Bắc Việt Nam, người ta gọi nơi sinh sống của mình là “Đất nước”, tức là “Âu Lạc”.

3.Vạn Xuân 萬春 (Ten thousands Spring Times) là quốc hiệu trong một thời kỳ độc lập ngắn dưới sự lãnh đạo của Lý Nam Đế, tồn tại 58 năm (544-602).
Dưới ách đô hộ phương Bắc (thuộc) Nam Việt 南越 (Nan Yueh, gồm Âu Lạc, Quảng Đông, Quảng Tây): trong thời nhà Triệu; (thuộc) 交 趾 (交 阯,交 址) Giao Chỉ (Intertwined feet, gồm miền Bắc Việt Nam, Quảng Đông, Quảng Tây) và 九真 Cửu Chân (Nine Verities) và 日南 Nhật Nam (South of the Sun): Bắc thuộc thời Hán (111 tCn-202); 交州 Giao Châu (Giao Province): Bắc thuộc từ thời nhà Đông Ngô đến nhà Đường (203-544).

4. Dưới ách đô hộ phương Bắc lần thứ hai: 安南都護府 An Nam Đô hộ phủ (The Protectorate of Annam): trong thời Đường (618-866, có nghĩa là “miền Nam yên bình” theo hy vọng của Trung Quốc); Tĩnh Hải quân 靜海: từ thời Cao Biền 高駢 làm Tiết độ sứ 節度使 .

5. Đại Cồ Việt 大瞿越 là quốc hiệu của Việt Nam từ năm 968 sau khi Ðinh Bộ Lĩnh dẹp yên các sứ quân cát cứ, thống nhất quốc gia, lên ngôi Hoàng đế. Quốc hiệu này tồn tại 748 năm (1054-1804) dưới các triều Ðinh (968-979), Tiền Lê (980-1009) và đầu thời Lý (1010-1053), kết thúc ở đời vua Lý Thánh Tông năm 1054.

6. Đại Việt 大越 là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lý. Nó ra đời năm 1054, khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt. Nó tồn tại không liên tục bởi triều Hồ (1400-1407). Sau 10 năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa chống Minh của Lê Lợi toàn thắng, Bắc Bình vương lên ngôi (1428), đặt tên nước là Ðại Việt và lãnh thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế. Quốc hiệu Ðại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời Tây Sơn (1788-1802).

7. Đại Ngu 大虞 là quốc hiệu thời nhà Hồ. Tháng 3/1400, Hồ Quý Ly phế Trần Thiếu Ðế, lập ra nhà Hồ và cho đổi tên nước.Về quốc hiệu này, theo truyền thuyết, họ Hồ là con cháu Ngu Thuấn (là một trong Ngũ Đế nổi tiếng ở Trung Hoa thời thượng cổ); sau này con Ngu Yên là Vĩ Mãn được Chu Vũ Vương của nhà Chu phong cho ở đất Trần gọi là Hồ Công, sau dùng chữ Hồ làm tên họ. Hồ Quý Ly nhận mình là dòng dõi họ Hồ, con cháu Ngu Thuấn, nên đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Chữ Ngu 虞 ở đây có nghĩa là “sự yên vui”, chứ không có nghĩa là “ngu si” 愚癡. Quốc hiệu đó tồn tại đến khi giặc Minh đánh bại triều Hồ (tháng 4/1407).

8. Việt Nam: Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, đăng quang 嘉隆高皇帝 và cho đổi tên nước là Việt Nam 越南, Quốc hiệu Việt Nam được công nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao để trở thành chính thức vào năm 1804. Ban đầu Gia Long đề nghị nhà Thanh 清朝 công nhận quốc hiệu Nam Việt, với lý lẽ rằng “Nam” 南 có ý nghĩa “An Nam” 安南 còn “Việt” 越 có ý nghĩa “Việt Thường” 越裳. Lấy cớ Nam Việt trùng với quốc hiệu của lãnh thổ nhà Triệu 趙佗, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa; nhà Thanh đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn, và chính thức tuyên phong tên này năm 1804. Lúc này lãnh thổ nước ta đã kéo dài đến Hà Tiên.
Tuy nhiên, tên gọi “Việt Nam” có thể đã xuất hiện sớm hơn. Dư Ðịa Chí của Nguyễn Trãi (1380-1442), soạn khoảng 1428-1430, về quốc hiệu nước ta vào đời Hồng Bàng, Nguyễn Trãi viết: “Trong sách chương của Thiên Vương có gọi Việt Nam, Nam Việt, Giao Chỉ, An Nam, Nam Bình, ngày nay cũng xưng là Việt Nam” và “Vua Ðế Minh trao cho Kinh Dương Vương làm Việt Nam Vương” .
Tiến sĩ Hồ Tôn Thốc soạn bộ thế chí dưới triều Trần Nghệ Tông (1370-1372) đặt tên là Việt Nam thế chí 越南世志.
Trong thi tập “Trình Tiên Sinh Quốc Ngữ” của Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) mở đầu có câu: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Một số văn bia thế kỷ thứ 17, lại khắc tên nước là Việt Nam. Văn bia chùa Phúc Thánh “Hạ trùm trưởng quan bi ký” ở Bắc Ninh, tạo dựng năm 1649 mở đầu bài minh: “Việt Nam Triệu quốc, Kinh Bắc định vương. Yên Phong Mỹ huyện. Mẫu Xá danh hương” . Bia “Thế Tồn bi ký” Thủy Môn Đình tạo vào năm 1670 tại Ðồng Ðăng, Lạng Sơn, mở đầu khắc: “Việt Nam hầu thiệt. Trấn Bắc ải quan. Thạch bích hoàn vụ Uyên quận giới phiên. Ðồng Ðăng linh ấp...” (đây là cửa ngő yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Các bia có ghi địa danh Việt Nam phải kể đến: Bia “Hậu thần bi ký”, tạo năm 1690 ở Từ Phong, huyện Quế Võ, Bắc Ninh, mở đầu: “Việt Nam cảnh giớị Bắc nhất vi tiên. Từ Sơn mỹ hi. Hữu thị miếu triều” hay bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Phòng có câu: “Việt Nam đại danh lam bất tri kỳ cơ”, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Tây nhắc đến “Chân Việt Nam chi đệ nhất”...
Bảng nhãn Lê Quí Ðôn (1724-1784) trong bộ Bách Khoa Vân Ðài Loại Ngữ, đã dùng hai chữ Việt Nam trong câu: “Nay xét tục ngữ Việt Nam...” .
Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ “Việt Nam” kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc (người Việt) và địa lý (ở phương Nam). Từ tố Nam 南 rõ là chỉ phương hướng được các triều đại phương Bắc nhiều lần hàm chỉ nước ta bởi họ coi mảnh đất phương nam này như một thuộc quốc. Còn chữ Việt 越 thì thuyết Văn tự giải của Hứa Thận thời Đông Hán định nghĩa: 度也從走戉聲 / Độ dã tòng tẩu việt thanh (Nghĩa là vượt qua, bộ tẩu, âm như chữ Việt là chiếc rìu đá) mang hàm ý huyết thống ít được người Hán dùng. Ngược lại với bắc triều, các phong trào giành độc lập cũng như các vương triều của cư dân Việt Nam xưa có xu hướng chuộng chữ Việt 越. Một chữ Việt khác đồng âm, đồng nghĩa nhưng dị tự vẫn hay được các bản in xưa nay dùng là 粵. Sau này, danh xưng Việt Nam được chính thức sử dụng như quốc hiệu từ thời Đế quốc Việt Nam (4/1945-8/1945).

9. Đại Nam: Năm 1820, Minh Mạng (1820-1840) lên ngôi 明命仁皇帝 xin nhà Thanh cho phép đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam (大南), ngụ ý một nước Nam rộng lớn. Tuy nhiên nhà Thanh đã không chính thức chấp thuận. Khi nhà Thanh bắt đầu suy yếu, vua Minh Mạng đã chính thức đơn phương công bố quốc hiệu mới Đại Nam vào ngày 15 tháng 2 năm 1839. Dù vậy, hai tiếng “Việt Nam” vẫn được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm văn học, trong nhiều giao dịch dân sự và quan hệ xã hội. Quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945.Trong lúc đó, người Pháp cũng theo sử sách của Tàu, vẫn gọi nước ta là “Annam”, và cũng cùng ngụ ý tương tự như người Tàu, để “yên trị” người Việt. Giai đoạn này cương vực nước ta đã gần như ngày nay.

10. Đế quốc Việt Nam (từ đây khi giao dịch không dùng chữ Hán) là một quốc gia trong lịch sử Việt Nam tồn tại ngắn ngủi từ ngày 11/3 đến 23/8/1945 và thường được xem là một chính phủ lệ thuộc vào đế quốc Nhật Bản.
Trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2, quân đội Pháp đã mất quyền kiểm soát Đông Dương vào tay người Nhật. Tuy nhiên, người Nhật vẫn giữ lại những quan chức Pháp và điều khiển đằng sau. Ngày 9 tháng 3, Nhật đảo chính Pháp. Để tranh thủ sự ủng hộ của người Việt, Nhật tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, triều đình hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập và hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam và giải tán nội các do Phạm Quỳnh đứng đầu. Với Dụ số 1 ra ngày 17 tháng 3, vua nêu khẩu hiệu “Dân Vi Quý” (lấy dân làm quý) làm phương châm trị quốc. Nhà sử học Trần Trọng Kim được bổ làm Nội các Tổng trưởng thời kỳ mới, giao nhiệm vụ thành lập nội các vào ngày 17 tháng 4. Đây là chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập và Trần Trọng Kim trở thành Thủ tướng đầu tiên của Việt Nam với nội các tập hợp được những trí thức có danh tiếng lúc bấy giờ và ra mắt quốc dân ngày 19 tháng 4.
Tháng 6 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam; đặt quốc thiều là bài Đăng đàn cung; quốc kỳ có “nền vàng hình chữ nhật, giữa có hình quẻ Ly ☲ màu đỏ thẫm”.
Mặc dù không đứng vững được bao lâu, nội các Trần Trọng Kim đã cố gắng đặt nền móng xây dựng một thể chế độc lập và tự chủ đầu tiên không thuộc Pháp, trong lúc chưa chuẩn bị cũng như thiếu thốn rất nhiều nhân sự và vật lực để điều hành một quốc gia vừa manh nha, vừa phải cố gắng dung hòa các thế lực quốc tế và chủ thuyết Đại Đông Á của Nhật trong đó người da vàng hợp tác với nhau đánh đuổi thực dân da trắng dưới bóng Nhật Hoàng, trong một tình thế không thuận lợi và nhiều phe phái muốn giành chính quyền. Tuy nhiên, một loạt các tổ chức thanh niên, hội đoàn được thành lập hoặc được phép hoạt động công khai, nhen nhóm lên hy vọng độc lập và tự chủ cho Việt Nam. Bộ trưởng tư pháp Trịnh Đình Thảo đã ra lệnh thả hàng ngàn tù chính trị bị Pháp giam giữ và thành lập Ủy ban cải tổ và thống nhất luật pháp.
Trong thời gian ngắn ngủi, chính phủ này cũng đã làm được một việc quan trọng là thống nhất về mặt danh nghĩa đất Nam Kỳ vào đất nước Việt Nam; và thay chương trình học bằng tiếng Pháp sang chương trình học bằng tiếng Việt, do học giả Hoàng Xuân Hãn biên soạn.
Trong thời kỳ cầm quyền, Đế quốc Việt Nam phải đối đầu với nạn đói Ất Dậu và sự tranh giành chính quyền hoặc ảnh hưởng của nhiều thế lực khác nhau. Vì trước đó chưa phải là một thế lực chính trị và chưa chuẩn bị quân đội riêng, cũng không có bộ quốc phòng (hoặc an ninh), chính phủ Trần Trọng Kim thực chất vẫn nằm dưới sự bảo hộ của quân đội Nhật chiếm đóng Đông Dương, vì vậy có nhiều người phe Việt Minh cho rằng đây chỉ là một chính phủ bù nhìn thân Nhật và không có được sự ủng hộ của dân chúng. Khi quân Nhật đầu hàng Đồng Minh và sau những diễn biến dẫn đến Cách mạng tháng 8, chính phủ Trần Trọng Kim cũng chỉ tồn tại được đến ngày 23 tháng 8 năm 1945 thì bị lực lượng Việt Minh đoạt chính quyền.
Ở miền Nam, Pháp theo quân Anh trở lại Đông Dương và ngày 23 tháng 9 năm 1945 đã nổ súng gây chiến ở Sài Gòn rồi mở rộng đánh chiếm Nam Bộ. Pháp đã lập ra một chính phủ Nam Kỳ quốc hòng tách khu vực này ra khỏi Việt Nam.
Một số nhân sĩ của nội các Đế quốc Việt Nam đã tham gia vào việc xây dựng chính phủ Việt Nam Cộng hòa sau đó tại lãnh thổ miền Nam. Một số người sau tham gia Chính phủ liên hiệp kháng chiến Việt Nam hoặc đi theo Việt Minh như ông Phan Anh, Phan Kế Toại, Trịnh Đình Thảo, Tạ Quang Bửu,....

11. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là tên gọi của cả nước Việt Nam từ 1945 đến 1954 và miền Bắc Việt Nam từ 1954 đến 1976. Nhà nước này được thành lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 (ngày quốc khánh của Việt Nam ngày nay) với đóng góp chung của toàn dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của của mặt trận Việt Minh trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945. Ban đầu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Pháp công nhận (trong hiệp ước năm 1946 - như một nước tự do thuộc Liên hiệp Pháp) và được các nước trong phe xã hội chủ nghĩa cũng như các nước khác công nhận khởi đầu bởi Trung Quốc và Liên Xô vào năm 1950. Thủ đô kháng chiến đặt ở Việt Bắc.
Khi mới thành lập đến 1954, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối đầu với Pháp và Quốc gia Việt Nam được lập ra dưới cái ô của Pháp năm 1949. Trong thời kỳ 1954-1975, nước Việt Nam tạm phải chia làm 2 miền theo Hiệp định đình chiến Giơnevơ 7/1954 nên chính thể này (được sự hỗ trợ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước trong phe XHCN) lại phải đối đầu với Việt Nam Cộng Hoà (được sự giúp sức của Mỹ và một số nước đồng minh) được thành lập tại miền Nam Việt Nam .

12. Nam Kỳ quốc hay Nam kỳ Cộng hòa quốc (tiếng Pháp: République de Cochinchine) là danh xưng do chính phủ Pháp đặt ra cho vùng lãnh thổ Việt Nam phía dưới vĩ tuyến 16. Chính quyền Nam Kỳ quốc được thành lập ngày 26 tháng 3 năm 1946, về danh nghĩa là một quốc gia độc lập với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Danh xưng này tồn tại được 2 năm, sau đó lại chính quyền Nam kỳ quốc giải thể, đổi tên lại thành Chính phủ Nam phần Việt Nam, rồi sát nhập vào chính quyền lâm thời Quốc gia Việt Nam ngày 2 tháng 6 năm 1948.

13. Quốc gia Việt Nam (tiếng Pháp: l’État du Viêt Nam, 1949-1955) là danh xưng của toàn bộ vùng lãnh thổ Việt Nam, ra đời chính thức từ Hiệp ước Elysée ký ngày 8 tháng 3 năm 1949, giữa Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại. Về danh nghĩa, chính quyền thuộc khối Liên hiệp Pháp, độc lập, đối kháng và tồn tại trên cùng lãnh thổ với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Về mặt hình thức, quốc gia này gần như là một quốc gia quân chủ lập hiến với Quốc trưởng là Cựu hoàng Bảo Đại. Từ năm 1954, theo thỏa thuận của Hiệp định Genève 1954, chính quyền và các lực lượng quân sự của Quốc gia Việt Nam tập kết và được trao quyền kiểm soát vùng lãnh thổ Nam Việt Nam. Năm 1955, Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, giải tán Quốc gia Việt Nam, thành lập chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, lên làm Tổng thống. Đây là nền Đệ nhất Cộng hoà Việt Nam.

14. Việt Nam Cộng Hòa là tên gọi quốc gia được thành lập tại miền Nam Việt Nam, kế tục Quốc gia Việt Nam (1949–1955). Năm 1955, trong một cuộc trưng cầu dân ý, thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, có chủ quyền lãnh thổ chính thức ở miền Nam Việt Nam. Chính quyền này tồn tại độc lập trong 20 năm và sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc.

15. Cộng hòa Miền Nam Việt Nam là tên gọi mà Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đặt ra cho miền Nam Việt Nam với việc thành lập một chính phủ mới để chống lại chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Danh xưng này tồn tại trong 7 năm (1969-1976), sau đó, chính quyền lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã giải tán, hình thành một quốc gia Việt Nam thống nhất.

16. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam : Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội khóa 6 nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu này được sử dụng từ đó đến nay.
Như vậy, trong toàn bộ lịch sử, ta luôn dùng từ “Việt”, để chỉ dân tộc và đất nước ta. Chữ Việt trong tiếng Hán: 越. Thuyết Văn tự giải của Hứa Thận thời Đông Hán định nghĩa: 度也從走戉聲 Độ dã tòng tẩu việt thanh (Nghĩa là vượt qua, bộ tẩu, âm như chữ Việt là chiếc rìu đá). Một chữ Việt khác đồng âm, đồng nghĩa nhưng dị tự vẫn hay được các bản in xưa nay dùng là 粵. Trong Sử Kí của Tư Mã Thiên, Ư Việt 於越 còn được viết là Vu Việt 于越 và ghi nhận: 夫翦发文身,错臂左衽, 瓯越之民也 (Phu tiễn phát văn thân, thác tí tả nhẫm, Âu Việt chi dân dã / Như người Âu Việt, đàn ông cắt tóc, vẽ mình, đặt vạt áo về bên tay trái). Tư Mã Thiên còn dùng từ Việt với hàm í dân Việt: 秦时已并天下,略定杨越 置桂林, 南海、象郡, 以谪 徙民,与越杂处十三岁 (Tần thời dĩ tính thiên hạ, lược định Dương Việt trí Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận, dĩ trích tỉ dân, dữ Việt tạp xứ thập tam tuế. Nghĩa là: Nhà Tần, sau khi chiếm cả thiên hạ bèn lấy đất Dương Việt chia thành quận Quế Lâm, quận Nam Hải và quận Tượng, bắt những người bị tội đày xuống sống chung với người Việt, việc diễn ra đã được 13 năm). Về tổng thể, thời Tây Hán sách sử Trung Quốc đều thống nhất cho rằng chủ nhân nước Nam Việt là người Việt. Sau khi nước Việt thời chiến quốc và nước Nam Việt của Triệu Đà đã gộp vào Hán tộc, bắc triều gọi các nước phương nam là Nam. Ngược lại với bắc triều, các phong trào giành độc lập cũng như các vương triều của cư dân Việt Nam xưa có xu hướng chuộng chữ Việt (Việt Vương, Đại Cồ Việt, Đại Việt, Nam Việt và Việt Nam). Song trong lịch sử cha ông ta cũng dùng từ “Nam” với ý nghĩa tương tự (Nam quốc sơn hà, Nam dược thần hiệu…). Đến thế kỉ XIX 2 yếu tố “Việt” và “Nam” đã gộp thành tên gọi chính thống của dải đất hình chữ S bên bờ Tây Thái Bình dương. Để được như thế, hai từ đó đã trải qua một quá trình vận động bổ xung ngữ nghĩa hàng ngàn năm, với biết bao thăng trầm của lịch sử.

Các danh xưng gây tranh cãi

Dưới đây là những danh từng được dùng không chính thức để chỉ vùng lãnh thổ quốc gia Việt Nam. Những danh xưng không chính thức được ghi nhận lại từ cổ sử hoặc từ các tài liệu nước ngoài từ trước năm 1945.
1. Xích Quỷ 赤鬼, còn gọi là Thích Quỷ, theo Việt Nam Sử lược là có nguồn gốc từ thủy tổ của người Việt là Kinh Dương Vương.
Sách chép: Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Nam Hải.
Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây Lịch?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.
Danh xưng này chưa được kiểm chứng bằng cứ liệu lịch sử.
2. Nam Việt 南越 là quốc hiệu thời nhà Triệu (赵氏, 207 tCn-111 tCn). Triệu Đà 赵佗 là người Hán, quê huyện Chân Định, nhân lúc nhà Tần suy loạn 赵武帝乘秦之乱, theo lời uỷ thác của Nhậm Hiêu 任嚣 đã dùng ngay đội quân nhà Tần cử đi bình định Lĩnh Nam 岭南, từ Nam Hải quận (gồm 4 huyện Bác La, Long Xuyên, Phiên Ngu và Yết Dương) nổi lên, chống lại triều đình, hợp nhất quận Quế Lâm (đông bắc Quảng Tây) và quận Tượng (nam Hồ Nam). Sau khi Lã Hậu chết (năm 180 tCn), mưu đồ đánh Triệu Đà của quân nhà Hán bỏ hẳn nên Triệu Đà rảnh tay đã đánh thắng Âu Lạc của An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải, lập nước Nam Việt. Cương vực Nam Việt bao gồm ngày này là các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Bắc Việt Nam, và một số vùng của các tỉnh Vân Nam, Phúc Kiến, Hồ Nam, Quý Châu. Kinh đô tại Phiên Ngu 番禺, cũng là Quảng Châu ngày nay.
Nói chính xác thì đối tượng tranh cãi không phải là bản thân tên gọi Nam Việt, mà vấn đề là quốc hiệu này có đại diện cho nước Việt Nam hay không. Thời phong kiến xem Nam Việt chính là quốc hiệu của tộc người Việt, nhưng quan điểm chính thống ngày nay cho rằng quốc gia Nam Việt khi đó là của người Trung Hoa.
Cho rằng quốc hiệu này là của người Việt bởi “Triệu Vũ Đế đánh bại An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt là chuyện nội bộ tộc Việt, nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam. Nhà Triệu mất là khởi đầu thời kỳ Bắc thuộc”, được ghi nhận bởi các học giả:
Lê Văn Hưu: Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không thành phong tục mặc áo đội mũ [như Trung Hoa], đất Ngô Cối không có Thái Bá thì không thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam Đại. Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là “lão phu”, mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngấp nghé được. Trên quan điểm đó, Nhà Trần phong Triệu Đà là “Khai thiên Thế đạo Thánh vũ Thần triết Hoàng đế”.
Ngô Sĩ Liên: Truyện Trung Dung có câu: “Người có đức lớn thì ắt có ngôi, ắt có danh, ắt được sống lâu”. Vũ Đế làm gì mà được như thế? Cũng chỉ vì có đức mà thôi. Xem câu trả lời Lục Giả thì oai anh vũ kém gì Hán Cao. Đến khi nghe tin Văn Đế đặt thủ ấp trông coi phần mộ tổ tiên, tuế thời cúng tế, lại ban thưởng ưu hậu cho anh em, thì bấy giờ vua lại khuất phục nhà Hán, do đó tông miếu được cúng tế, con cháu được bảo tồn, thế chẳng phải là nhờ đức ư? Kinh Dịch nói: “Biết khiêm nhường thì ngôi tôn mà đức sáng, ngôi thấp mà không ai dám vượt qua”. Vua chính hợp câu ấy.
Nguyễn Trãi thay lời Bình Định Vương Lê Lợi, sau khi bình xong quân Minh, soạn Bình Ngô đại cáo, đã viết: “Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên làm đế một phương
”: 自趙丁李陳之肇造我國,與漢唐宋元而各帝一方. Hai câu này khẳng định nước Việt không những độc lập với phương Bắc mà còn xưng đế hiệu cùng một thời (nhà Triệu với nhà Hán), tỏ ra hoàn toàn ngang hàng.
Lê Tắc khi viết An Nam chí lược đã chép: Triệu Đà làm vua Nam Việt, mới lấy thi lễ giáo hóa nhân dân một ít. Điều này chứng tỏ Triệu Đà là người mang sự học đến Việt Nam từ trước chứ không phải Sĩ Nhiếp.
Quang Trung sau khi đánh bại đội quân nhà Thanh năm 1789 đã có ý định đòi lại đất hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây với lý do đây là đất cũ của Nam Việt thời Triệu Đà. Nhưng việc chưa thành thì vua đột ngột băng hà.
Trần Trọng Kim soạn Việt Nam sử lược vẫn chép nhà Triệu là chính thống.
Trong thời hiện đại, có chuyện rằng trong những năm 60 của thế kỷ XX, Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đã có ý trả lại Việt Nam vùng đất Lưỡng Quảng. Chủ tịch Việt Nam Hồ Chí Minh không nhận bởi ở đó số người nói tiếng Việt là thiểu số, người nói tiếng Hoa (tiếng Quảng) là đa số. Do vậy nếu có bầu cử thì người Hoa sẽ trúng cử chắc chắn và sẽ phát sinh nhiều hệ luỵ khác, trong đó có việc người dân phải dùng tiếng Hán, chữ Hán khi giao dịch ...
Quan điểm phủ nhận Nam Việt từng là quốc hiệu của Việt Nam vì cho rắng: Triệu Đà là kẻ ngoại bang đến xâm lược nước Âu Lạc. An Dương Vương mất nước là mở đầu thời kỳ Bắc thuộc là do các bậc trí giả sau nêu ra:
Ngô Thì Sĩ, cuối đời Hậu Lê, trong Việt sử tiêu án, ông chép: “An Dương Vương mất nước, để quốc thống về họ Triệu, chép to 4 chữ: “Kỷ Triệu Vũ Đế”. Người đời theo sau đó không biết là việc không phải. Than ôi! Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Triệu Đà khởi phát ở Long Xuyên, lập quốc ở Phiên Ngu, muốn cắt đứt bờ cõi, gồm cả nước ta vào làm thuộc quận, đặt ra giám chủ để cơ mị lấy dân, chứ chưa từng đến ở nước ta...Đến như việc xướng ra cơ nghiệp đế vương trước tiên, tán tụng Triệu Đà có công to, Lê Văn Hưu sáng lập ra sử chép như thế, Ngô Sĩ Liên theo cách chép hẹp hòi ấy, không biết thay đổi, đến như bài Tổng luận sử của Lê Tung, thơ vịnh sử của Đặng Minh Khiêm thay nhau mà tán tụng, cho Triệu Đà là bậc thánh đế của nước ta. Qua hàng nghìn năm mà không ai cải chính lại vì thế mà tôi phải biện bạch kỹ càng”.
Đào Duy Anh, trong cuốn Lịch sử cổ đại Việt Nam, cũng phê phán sử cũ và coi nhà Triệu là mở đầu thời kỳ Bắc thuộc.
Đó cũng là quan điểm chính thống hiện nay của Việt Nam, phản ảnh trong tất cả sách sử và trong cả các lĩnh vực khác. Chẳng hạn Tố Hữu làm thơ gọi họ Triệu là “giặc”, phê phán Mị Châu làm mất nước: “Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu, Trái tim lầm chỗ để trên đầu. Nỏ thần vô ý trao tay giặc, Nên nỗi cơ đồ đắm bể sâu”.
Như vậy Triệu Đà có công thống nhất một số bộ lạc trong Bách Việt thành Nam Việt hay Triệu đã xâm lược Âu Lạc nhập vào Nam Hải chưa được rõ.
3. An Nam 安南 là danh xưng của người nước ngoài chỉ lãnh thổ Việt Nam trong một số thời kỳ. Nguồn gốc danh xưng này từ thời Bắc thuộc (Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ), nhà Đường ở Trung Quốc đã đặt tên cho khu vực lãnh thổ tương ứng với khu vực miền Bắc Việt Nam ngày nay là An Nam đô hộ phủ (安南都護府, 673-757 và 768-866). Sau khi giành được độc lập, các triều vua Việt Nam thường phải nhận thụ phong của Trung Quốc, danh hiệu An Nam quốc vương (安南國王,kể từ năm 1164). Từ đó người Trung Quốc thường gọi nước ta là An Nam, bất kể quốc hiệu là gì. Cách gọi này đã ảnh hưởng đến cách gọi của người châu Âu trước năm 1945.
Thời kỳ thuộc Pháp, Annam (gọi theo tiếng Pháp) là tên gọi chỉ vùng lãnh thổ Trung Kỳ do nhà Nguyễn cai trị dưới sự bảo hộ của Pháp. Tuy vậy, người Pháp vẫn dùng danh xưng Annam để chỉ người Việt nói chung ở cả 3 vùng Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam) và Nam Kỳ (Cochinchine).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!