Người Việt coi trọng việc kỉ niệm ngày mất, nhất là cúng cha mẹ. Theo “Thọ mai gia lễ”, thì cứ đúng ngày quy định trong gia lễ mà làm, không có sự chuyển dịch tuỳ tiện theo lời thầy lễ hay thầy bói nào cả. Chỉ trừ ngày làm lễ an táng và ngày làm lễ trừ phục cần chọn ngày lành. Người ta không ai có thể chọn ngày chết, vậy nên từ xưa tới nay, hàng năm cứ đến ngày mất thì làm giỗ, dù cho có những năm, ngày đó rất xấu, có cả trùng phục, trùng tang, sát chủ, quả tú, cô thần.v.v... theo gia lễ: Lễ chung thất, Tốt khốc, Tiều tường, Ðại tường cứ theo đúng ngày mà làm lễ. Khi đó con cháu ở xa nhớ ngày về làm lễ, thân nhân ở chỗ khác sắm sửa lễ đúng ngày tới dự. Lưu ý tang tế theo ngày định sẵn, thân bằng, cố hữu ai lưu luyến đến thăm viếng, không đợi thiệp mời như lễ mừng, lễ cưới, không chuỵện “Hữu thỉnh hữu lai, vô thỉnh bất đáo” (mời thì đến, không thì thôi). Một số vấn đề về đồ lễ, nghi thức, văn khấn, hóa vàng đã chép tại phần Cúng giỗ. Chú ý:
1. Lễ ba ngày (三虞,lễ tế ngu)
Tục này không thống nhất, có nơi tính ba ngày sau khi mất, có nơi tính ba ngày sau khi chôn. Thực ra, trong điển lễ thì không có “lễ ba ngày” mà chỉ có “lễ tế ngu” 祭虞, gồm có: 初虞,再虞,三虞 : “sơ ngu”, “tái ngu”, “tam ngu”. “Ngu” nghĩa là “yên”, tức là ba lần tế lễ cho yên hồn phách. Theo “Thọ mai gia lễ” thì khi chôn xong, rước linh vị về đến nhà tế sơ ngu. Làm sơ ngu xong gặp ngày nhu, (ất, kỷ , tân, quí) làm lế tái ngu, gặp ngày cương (giáp, bính, mậu, canh, nhâm) làm lễ tam ngu.
Dần dần về sau người ta giảm lược, kiêm cả ba lễ luôn, chỉ làm lễ tam ngu, vì thế nên gọi là lễ ba ngày. Vậy là tính ba ngày từ sau khi chôn, theo tục gọi là lễ mở cửa mả. Ngày đó con cháu ra sửa lại mồ mả, đắp cỏ, khơi rãnh thoát nước... Ngu là tế ngu, tế chỉ tế người chết, tế thần. Theo phong tục cũ thì ít khi chết xong chôn ngay, thường còn để năm bảy ngày trong nhà. Khi chưa chôn làm lễ triêu tịch điện, tức cúng cơm hàng ngày vẫn theo lễ thờ người sống. Vậy tế ngu phải tính từ sau khi chôn.
Có ba điều không yên khiến phải làm lễ tế ngu:
-Ðang sống hoạt động nay mọi hoạt động bỗng nhiên đình chỉ.
-Ðang nhìn thấy , khi đã nhập quan không nhìn thấy bóng dáng nữa.
-Ðang ở trên dương thế, nay xác về cõi âm, hồn vất vưởng lìa khỏi xác. Âm dương hoàn toàn cách biệt từ sau lễ thành phần. Sơ ngu, tái ngu, tam ngu là tế để làm cho yên hồn phách, vậy phải tế sau khi mất, sau khi lễ nhập quan và sau khi lễ thành phần xong.
Thời này cũng có trường hợp sau khi chết 4-5 ngày còn để trong nhà lạnh chưa chôn nên không thể làm lễ ba ngày trước lễ an táng.
Kiêng không đắp mộ trong vòng tang:
Theo phong tục, sau ba ngày an táng là làm lễ mở cửa mả. Trong buổi đó, sửa sang mộ cao ráo, đắp cỏ xung quanh làm rãnh thoát nước, chặt bỏ cây bụi chung quanh để phòng rễ mọc lan, xuyên vào mộ, chọc thủng áo quan. Kể từ ngày đó, con cháu đến viếng thăm, thắp hương chỉ lấy đất chung quanh đắp bổ sung vào những chỗ đất bị sụt lở, không được trèo lên mộ, không được động thuổng, cuốc vào. Có tục này bởi trong ba năm đó áo quan và thi thể đang trong thời kỳ tan rữa, đã xảy ra những trường hợp do không biết để phòng mà mồ mả bị sập. Sập mả, động mả mặc dù là hiện tượng tự nhiên cũng gây cho tang gia nhiều điều lo lắng.
2. Lễ cúng cơm trong 100 ngày 朝夕面:
Trước bữa ăn, trong vòng 100 ngày sau mất, người thân dâng lên bàn thờ một bát cơm úp, một vài món ăn bình thường, thường là tinh khiết, không đòi hỏi cầu kỳ, nhà nghèo thì lưng cơm, đĩa muối cũng xong. Thắp hương xong, dựng đôi đũa vào giữa bát cơm, có rượu thì rót chén rượu. Khấn vái xong cũng rót chén nước.
Thờ cúng vong linh cũng giống như đang sống, cũng là để thoả nguyện tâm linh, “Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương”.
3. Cúng tuần 旬祭:
Tuần Thất 旬七 là tuần 7 ngày và lập lại 7 lần, được thực hiện vào các ngày thứ 7, 14, 21, 28, 35, 42 sau mất và tổ chức lớn hơn cúng cơm hàng ngày chút đỉnh. Sở dĩ phải làm Tuần thất là vì người ta tin rằng người chết, sau 7 ngày thì tan một cái vía, mà con người có Bảy Vía nên phải làm tuần 7 lần để cho 7 cái vía lần lượt tan hết thì mới siêu thăng được. Nếu có làm lễ tụng Kinh thì gọi là Trai thất 齋七.Nhưng có nhiều người chế giảm, không làm Tuần thất từ thứ 1 đến thứ 6, chỉ làm Tuần thất thứ 7 gọi là Chung thất.
Theo thuyết Thần giao cách cảm, ngoài điện trường vật lý đã được ứng dụng trong thực tiễn, còn có điện trường sinh học. Những cá thể có cùng tần số cảm ứng trong điện trường sinh học, mặc dầu ở cách xa nhau rất xa vẫn nhận được những nguồn thông tin của nhau. Các nhà khoa học đã vận dụng những phát triển đó để giải thích về điềm, về giấc mơ, về những biểu hiện tâm, sinh lý bất thường khi thân nhân (có thể cách nhau rất xa về không gian) có cùng tần số điện trường sinh học có sự biến bất thường. Người ta bảo chết là hết. Nhưng, chết chưa phải là đã hết khi người chết còn tồn tại trong tâm chí người sống. Sau khi chết, tim ngừng đập, máu ngừng chảy, thần kinh cảm giác ngừng hoạt động, vỏ não chưa bị huỷ, xung quanh hiện trường phát từ não vẫn chưa ngừng phát sóng. Lớp đất dày không ngăn được sóng điện vật lý hay sóng điện sinh học. Cá thể sống có tần số điện trường sinh học tương ứng vẫn tiếp nhận được tín hiệu, do đó hiện tượng báo mộng chưa hẳn là vu vơ, không đáng tin. Phải chăng vì lẽ đó mà các cụ cho rằng âm hồn còn phảng phất, chưa siêu thoát.
Cầu siêu: chỉ tiến hành với người đã được quy với mong muốn vong hồn người chết được mát mẻ. Thực hiện vào cuối tuần thứ 5 (35 ngày) bởi lúc đó hồn được phép về thăm nhà, rồi Siêu linh là lên thuyền Bát Nhã qua miền Tịnh thổ nếu được sư tăng tụng niệm. Đồ lễ là lễ chay gồm: hương, hoa tươi, quả chín, oản, xôi, chè. Trường hợp chùa có thờ các vị Thánh Mẫu thì có thể dâng lễ mặn ở bàn thờ đó còn Phật điện thì tuyệt không dùng. Dịp này phải nhờ sư hoặc các vãi tụng kinh, con cháu quỳ dưới. Khi cầu siêu dùng kinh Adiđà: “Nguyện sinh vào đất Tây phương trong sạch, Hoa Sen nở chín tầng làm cha mẹ. Hoa nở thấy Phật gặp cõi vãng sinh. Lòng thành dâng Lễ, vạn tội tiêu tan, nguyện cho linh hồn thơm tho, đắc độ siêu thoát cùng gia quyến yên vui lợi lộc”. Sau lễ Cầu siêu con cháu thành tâm công đức để tu sửa chùa.
4. Lễ chung thất (49 ngày) và tốt khốc (100 ngày) :
Có nơi chỉ cúng 49 ngày (終七, tức là lễ chung thất). Thế tục cho rằng 49 ngày đó là thời kỳ vong linh còn mờ mịt, nổi chìm chưa định, nên phải cúng vong để giúp được chuyển sinh vào chỗ thiện. Theo thuyết của Phật giáo: vừa mới chết, hồn người chết bị Thành Hoàng là vị thần cầm sổ bộ điạ phương phái Ngưu Đầu và Mã Diện áp tải đến tra án trong 49 ngày về những hành vi thuở sinh còn sống, qua 7 lần phán xét, mỗi lần 7 ngày đi qua một điện ở âm ty (tức 1 tuần, nhưng không phải tuần lễ theo dương lịch); sau 7 tuần vong hồn đã siêu thoát sẽ tự do hay bị gông cùm tuỳ theo tội trạng.
Làm chay: thường thực hiện trong tuần Tứ cửu (cúng 49 ngày) đối với người chết bất đắc kỳ tử. Đàn chay lập ra gồm 3 tầng: trên cùng là tượng Tam bảo được thay bằng 3 bình hương; tiếp theo là tượng Tam phủ (Trời, đất, Nước gồm Thiên Quang, Thoích Ca và Thành Hoàng; dưới cùng là ban thờ chúng sinh. Khi tiến hành có Lễ Phật, lễ Tam phủ, Cầu vong, phá ngục, giải oan cắt đoạn, phóng sinh và cúng cháo.
Có nơi cúng hết 100 ngày (卒哭, tức lễ tốt khốc nghĩa là thôi khóc) với ý nghĩa là thời gian này âm hồn vẫn còn phảng phất luẩn quẩn trong nhà chưa đi xa.
5. Tiểu tường, 小祥:
Thế tục cho rằng 49 ngày đó là thời kỳ vong linh còn mờ mịt, nổi chìm chưa định, nên phải cúng vong để giúp được chuyển sinh vào chỗ thiện. Do vậy giỗ đầu là tiểu cát tường, được thực hiện đúng 1 năm sau ngày mất. Khi đó con cháu phải mặc tang phục và lúc tế lễ cũng khóc như khi đưa ma. Đồng thời sắm sanh đồ mã gồm đủ vật dụng hàng ngày xưa kia của người hưởng giỗ, có thêm hình nhân để giúp việc. Đây chính là mã biếu để người quá cố đem biểu các ác thần tránh sự quấy nhiễu.
6. Đại tường, 大祥 :
Niên quang tự tiễn 年光似箭, thời gian qua mau như tên bắn, thoắt cái đã đến lần giỗ thứ 2, giỗ đại cát tường. Đây còn gọi là Chung thân chi tang và con cháu cũng mặc đồ tang nhưng sự khóc đau có giảm hơn. Ngược lại việc tổ chức giỗ lớn hơn và việc sắm đồ mã lại chú ý hơn bởi đây là mã nhận mà chính người thân quá cố sẽ được dùng. Trước khi đốt mã có cũng ngay tại mộ và sau đó mã sẽ được hóa trước mộ.
7. Trừ phục, (đàm tế, 除服):
2 tháng sau ngày giỗ hết, tìm ngày Trực trừ thực hiện lễ trừ phục hay bỏ tang. Ngày trực trừ được tính theo Phép ghi 12 chỉ trực 十二 建除法 được viết rõ ở quyển khác. Trước đó 1 tháng gia chủ mặc đồ tang đứng trước ban thờ khấn rằng “Kính lạy…Con là…cùng toàn gia dự định sang tháng vào ngày…sẽ làm lễ đàm cho..nếu được xin báo ứng” sau đó lấy 2 đồng xu ra và lạy khấn “Trên trời lấy nhật nguyệt chia ngày đêm, dưới đất coi âm dương mà phân biệt. Chúng con người trần mắt thịt, mờ mịt không hay vậy xin gieo đồng tiền trông sự báo ứng biết lành mà tới, biết dữ mà xa. Cúi xin bái lạy Hương linh. Cẩn cáo”. Gieo tiền đồng sấp, đồng ngửa là được. Khi chưa được sẽ khấn lại gieo tiếp 2 lần nữa nếu vẫn chưa được sửa lễ xin tiếp hoặc lùi ngày. Trừ phục gồm 3 lễ:
1. Lễ sửa mộ: Ðắp sửa mộ thành mộ tròn.
2. Lễ đàm tế, 談祭: Cất khăn tang. Huỷ đốt các thứ thuộc phần lễ tang, rước linh vị vào bàn thờ chính. Bỏ bàn thờ tang. Thu cất các bức trướng, câu đối viếng.Từ đó mọi hoạt động gia đình trở lại bình thường (cưới xin, đi dự các cuộc vui..).
3. Lễ rước linh vị vào chính điện và yết cáo tổ tiên: Chép sẵn linh vị mới, phủ giấy hay vải đỏ, khi đàm tế ở bàn thờ tang xong thì đốt linh vị cũ cùng với băng đen phủ quanh khung ảnh và văn tế. Sau đó rước linh vị, bát hương và chân dung (nếu có) đưa lên bàn thờ chính, đặt ở hàng dưới. Trường hợp nhà con thứ không thờ gia tiên bậc cao hơn thì vẫn để nguyên bàn thờ như cũ, không phải chuyển bàn thờ mà chỉ cần yết cáo gia thần và yết cáo tổ ở nhà thờ tổ.
8. Cải táng, 改葬:
Người mất, sau ba năm đoạn tang rồi hoặc một vài năm nữa thì con cái lo việc cải táng. Tục cải táng khởi nguồn từ thời Bắc thuộc khi quan lại và thương lái TQ chết tại Nam mà gia đình có nhu cầu đưa xương cốt về chính quốc. Về sau thành lệ và thành phong tục bởi: Một là vì nhà nghèo, khi cha mẹ mất, không tiền lo liệu, mua tạm một cỗ ván xấu, đợi xong ba năm thì cải táng, kẻo sợ ván hư nát thì hại đến di hài; Hai là vì chỗ đất mối kiến, nước lụt thì cải táng; Ba là vì, các nhà địa lý, thấy chỗ mả vô cớ mà sụt đất hoặc cây cối ở trên mả tự nhiên khô héo, hoặc trong nhà có kẻ dâm loạn điên cuồng, hoặc trong nhà đau ốm lủng củng, hoặc trong nhà có kẻ nghịch ngợm, sinh ra kiện tụng lôi thôi, thì cho là tại đất mà cải táng; Bốn là, những người muốn cầu công danh phú quý, nhờ thầy địa lý tìm chỗ cát địa mà cải táng. Lại có người thầy nhà khác phát đạt, đem mả nhà mình táng gần vào chỗ mả nhà kia, để cầu được hưởng dư huệ.
Chọn ngày: tìm hiểu những mộ chôn bên cạnh xem họ cải xương cố đã sạch chưa mà quyết định thời gian. Thường vào dịp cuối năm, trước 23 tháng Chạp vì khi đó thời tiết khô ráo. Sau đó phải tìm ngày. Điều quan trọng nhất trong ngày giờ này là tránh các ngày mà có các sao sau chiếu Thiên cương, Thọ tử, Đại hao, Tử khí, Quan phù (xấu trong mọi việc lớn), Băng tiêu ngoạ giải (kiêng làm nhà và mọi việc lớn), Thổ cấm (kiêng động thổ), Trùng tang, Trùng phục (kỵ hôn nhân, mai táng, cải táng). Nếu không tính được cần nhờ thầy.
Tìm đất, chọn hướng: ban đầu cổ nhân chú ý cả việc chọn đất làm nhà (dương cơ), dựng chùa...và đặt mả (âm phần) và cho rằng “Nhất dương thắng Thập âm”. Nhưng về sau dương cơ chỉ cốt lấy hướng còn âm phần (nơi an táng của người thân) thì được quan tâm đến cả vị trí, thế đất, hình thù đám đất và hướng. Địa điểm lý tưởng cho nơi đặt mộ là có thế đất vuông vức, nằm lưng chừng quả đồi giống hình chiếc ghế bành: phía sau có Hậu chẩm là tựa vào Rùa đen (Huyền Quy), trước mặt có Minh đường là Phượng hoàng đỏ thấp hơn như cái ghế để chân, bên trái có Rồng xanh (tả Thanh Long) nằm cao hơn, bên phải có Hổ trắng (hữu Bạch Hổ). Xa hơn có dòng nước chẩy coi như huyết mạch của đất. Như vậy địa điểm đặt một lành là phải có đủ “Long, Huyệt, Sa, Thủy” và tránh những đám đất méo mó, trước rộng, sau hẹp...việc chọn hướng cần dựa vào mệnh người nằm dưới mộ và tránh hướng Tuyệt mệnh, Hoa hại.
Trường hợp các gia đình quy tập mộ người thân trong một khu thì việc xác định hướng là theo mệnh của người gia trưởng, những thành viên khác sắp xếp theo thứ tự “Tả chiêu hữu mục” 左昭右穆: các đời lẻ về bên tay Trái-hướng Đông, đời chẵn về bên Phải-hướng Tây. Trong bàn đồ thờ Cửu Huyền Thất Tổ cũng sắp xếp Bài vị hay ảnh theo nguyên tắc này.
Chọn mầu gạch: Xưa kia khi cải sẽ đắp mộ tròn. Sau này xây hình dài hoặc tròn tùy gia chủ nhưng đa phần dài. Hiện nay việc quét vôi các ngôi mộ xây đã giảm, đa phần là ốp gạch. Việc chọn mầu gạch cũng theo nguyên tắc sinh vượng của Ngũ hành, Bát quái. Những vấn đề trên tôi chép kĩ ở quyển Lịch pháp và Lý số.
Nghi thức: Trước hôm cải táng làm lễ cáo từ đường. Ðến hôm cải táng, lại làm lễ khấn thổ công chỗ để mả mới táng.
Trước hết khai mả, nhặt lấy xương xếp vào một cái tiếu sành, rẩy nước vang vào rồi che đậy thật kín, không cho ánh sáng mặt trời lọt vào được. Nhà phú quý thì dùng quan quách liệm như khi hung táng đem cải táng sang đất khác. Còn quan tài cũ nát thì bỏ đi, tốt thì đem về dùng hoặc làm cầu, hoặc làm chuồng trâu chuồng ngựa, để trâu ngựa đứng cho khỏi sâu chân. Dân gian tin rằng: Hễ ai đau tức thì lấy mảnh ván thộ (mảnh ván quan tài nát) đốt lên, để gầm giường mà nằm thì khỏi đau tức.
Trong khi cải táng có ba điều là tường thuỵ (tức là mả phát tốt đẹp) mà không cải táng: Một là, khi đào đất thấy có con rắn vàng thì cho là long xà khí vật; Hai là, khi mở quan tài ra thấy có dây tơ hồng quấn quýt thì cho là đất kết; Ba là, hơi đất chỗ đó ấm áp, trong huyệt khô ráo không có nước hay là nước đóng giọt lại như sữa đều là tốt. Khi nào gặp như thế thì phải lập tức lấp lại ngay.
Khi cải táng phải cất mộ ban đêm hoặc sáng sớm khi Mặt trời chưa mọc, hoặc nếu làm ban ngày thì phải có lán che bởi âm dương cách biệt nên phải kiêng không để mặt trời trực tiếp dọi vào. Nhưng, xuất phát từ kinh nghiệm thực tế, có nhiều trường hợp, gặp đất dưỡng thi, hoặc ba điều tường thuỵ (tức mộ kết phát) không nên cải táng, phải lấp lại ngay. Trong trường hợp thi thể sau nhiều năm vẫn còn nguyên vẹn, nếu để ánh nắng mặt trời trực tiếp dọi vào thì rữa ra ngay và teo lại. Mặt khác buổi sáng hay đêm không khí thường trong lành, ít người tụ tập, đỡ độc hại. Vì vậy, để phòng xa nên kiêng ánh mặt trời, lâu ngày trở thành phong tục chung.
Sau khi hoàn thành việc xây phải gắn bia có ảnh, họ tên, năm sinh, năm mất và có thể có câu đối, ví dụ khi xây mộ thân phụ, tôi đã gắn câu: “Công cao mở đất lưu hậu thế, Đức cả rèn con rạng tổ tông”.
9. Kị nhật, 忌日 : hay cát kị thực hiện vào ngày mất (theo âm lịch) từ năm thứ 3 trở đi. Ý nghĩa, đồ lễ, nghi thức đã chép kỹ tại phần cúng giỗ. Thông thường các năm thứ 5, 15, 25.. gọi là giỗ chẵn, năm thứ 10, 20, 30...gọi là giỗ tròn sẽ làm lớn hơn.
10. Chăm sóc mộ phần: là một trong những hình thức thờ phụng. Việc này được thực hiện vào dịp trước Tết, trước ngày cúng giỗ và dịp Thanh minh.
1. Lễ ba ngày (三虞,lễ tế ngu)
Tục này không thống nhất, có nơi tính ba ngày sau khi mất, có nơi tính ba ngày sau khi chôn. Thực ra, trong điển lễ thì không có “lễ ba ngày” mà chỉ có “lễ tế ngu” 祭虞, gồm có: 初虞,再虞,三虞 : “sơ ngu”, “tái ngu”, “tam ngu”. “Ngu” nghĩa là “yên”, tức là ba lần tế lễ cho yên hồn phách. Theo “Thọ mai gia lễ” thì khi chôn xong, rước linh vị về đến nhà tế sơ ngu. Làm sơ ngu xong gặp ngày nhu, (ất, kỷ , tân, quí) làm lế tái ngu, gặp ngày cương (giáp, bính, mậu, canh, nhâm) làm lễ tam ngu.
Dần dần về sau người ta giảm lược, kiêm cả ba lễ luôn, chỉ làm lễ tam ngu, vì thế nên gọi là lễ ba ngày. Vậy là tính ba ngày từ sau khi chôn, theo tục gọi là lễ mở cửa mả. Ngày đó con cháu ra sửa lại mồ mả, đắp cỏ, khơi rãnh thoát nước... Ngu là tế ngu, tế chỉ tế người chết, tế thần. Theo phong tục cũ thì ít khi chết xong chôn ngay, thường còn để năm bảy ngày trong nhà. Khi chưa chôn làm lễ triêu tịch điện, tức cúng cơm hàng ngày vẫn theo lễ thờ người sống. Vậy tế ngu phải tính từ sau khi chôn.
Có ba điều không yên khiến phải làm lễ tế ngu:
-Ðang sống hoạt động nay mọi hoạt động bỗng nhiên đình chỉ.
-Ðang nhìn thấy , khi đã nhập quan không nhìn thấy bóng dáng nữa.
-Ðang ở trên dương thế, nay xác về cõi âm, hồn vất vưởng lìa khỏi xác. Âm dương hoàn toàn cách biệt từ sau lễ thành phần. Sơ ngu, tái ngu, tam ngu là tế để làm cho yên hồn phách, vậy phải tế sau khi mất, sau khi lễ nhập quan và sau khi lễ thành phần xong.
Thời này cũng có trường hợp sau khi chết 4-5 ngày còn để trong nhà lạnh chưa chôn nên không thể làm lễ ba ngày trước lễ an táng.
Kiêng không đắp mộ trong vòng tang:
Theo phong tục, sau ba ngày an táng là làm lễ mở cửa mả. Trong buổi đó, sửa sang mộ cao ráo, đắp cỏ xung quanh làm rãnh thoát nước, chặt bỏ cây bụi chung quanh để phòng rễ mọc lan, xuyên vào mộ, chọc thủng áo quan. Kể từ ngày đó, con cháu đến viếng thăm, thắp hương chỉ lấy đất chung quanh đắp bổ sung vào những chỗ đất bị sụt lở, không được trèo lên mộ, không được động thuổng, cuốc vào. Có tục này bởi trong ba năm đó áo quan và thi thể đang trong thời kỳ tan rữa, đã xảy ra những trường hợp do không biết để phòng mà mồ mả bị sập. Sập mả, động mả mặc dù là hiện tượng tự nhiên cũng gây cho tang gia nhiều điều lo lắng.
2. Lễ cúng cơm trong 100 ngày 朝夕面:
Trước bữa ăn, trong vòng 100 ngày sau mất, người thân dâng lên bàn thờ một bát cơm úp, một vài món ăn bình thường, thường là tinh khiết, không đòi hỏi cầu kỳ, nhà nghèo thì lưng cơm, đĩa muối cũng xong. Thắp hương xong, dựng đôi đũa vào giữa bát cơm, có rượu thì rót chén rượu. Khấn vái xong cũng rót chén nước.
Thờ cúng vong linh cũng giống như đang sống, cũng là để thoả nguyện tâm linh, “Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương”.
3. Cúng tuần 旬祭:
Tuần Thất 旬七 là tuần 7 ngày và lập lại 7 lần, được thực hiện vào các ngày thứ 7, 14, 21, 28, 35, 42 sau mất và tổ chức lớn hơn cúng cơm hàng ngày chút đỉnh. Sở dĩ phải làm Tuần thất là vì người ta tin rằng người chết, sau 7 ngày thì tan một cái vía, mà con người có Bảy Vía nên phải làm tuần 7 lần để cho 7 cái vía lần lượt tan hết thì mới siêu thăng được. Nếu có làm lễ tụng Kinh thì gọi là Trai thất 齋七.Nhưng có nhiều người chế giảm, không làm Tuần thất từ thứ 1 đến thứ 6, chỉ làm Tuần thất thứ 7 gọi là Chung thất.
Theo thuyết Thần giao cách cảm, ngoài điện trường vật lý đã được ứng dụng trong thực tiễn, còn có điện trường sinh học. Những cá thể có cùng tần số cảm ứng trong điện trường sinh học, mặc dầu ở cách xa nhau rất xa vẫn nhận được những nguồn thông tin của nhau. Các nhà khoa học đã vận dụng những phát triển đó để giải thích về điềm, về giấc mơ, về những biểu hiện tâm, sinh lý bất thường khi thân nhân (có thể cách nhau rất xa về không gian) có cùng tần số điện trường sinh học có sự biến bất thường. Người ta bảo chết là hết. Nhưng, chết chưa phải là đã hết khi người chết còn tồn tại trong tâm chí người sống. Sau khi chết, tim ngừng đập, máu ngừng chảy, thần kinh cảm giác ngừng hoạt động, vỏ não chưa bị huỷ, xung quanh hiện trường phát từ não vẫn chưa ngừng phát sóng. Lớp đất dày không ngăn được sóng điện vật lý hay sóng điện sinh học. Cá thể sống có tần số điện trường sinh học tương ứng vẫn tiếp nhận được tín hiệu, do đó hiện tượng báo mộng chưa hẳn là vu vơ, không đáng tin. Phải chăng vì lẽ đó mà các cụ cho rằng âm hồn còn phảng phất, chưa siêu thoát.
Cầu siêu: chỉ tiến hành với người đã được quy với mong muốn vong hồn người chết được mát mẻ. Thực hiện vào cuối tuần thứ 5 (35 ngày) bởi lúc đó hồn được phép về thăm nhà, rồi Siêu linh là lên thuyền Bát Nhã qua miền Tịnh thổ nếu được sư tăng tụng niệm. Đồ lễ là lễ chay gồm: hương, hoa tươi, quả chín, oản, xôi, chè. Trường hợp chùa có thờ các vị Thánh Mẫu thì có thể dâng lễ mặn ở bàn thờ đó còn Phật điện thì tuyệt không dùng. Dịp này phải nhờ sư hoặc các vãi tụng kinh, con cháu quỳ dưới. Khi cầu siêu dùng kinh Adiđà: “Nguyện sinh vào đất Tây phương trong sạch, Hoa Sen nở chín tầng làm cha mẹ. Hoa nở thấy Phật gặp cõi vãng sinh. Lòng thành dâng Lễ, vạn tội tiêu tan, nguyện cho linh hồn thơm tho, đắc độ siêu thoát cùng gia quyến yên vui lợi lộc”. Sau lễ Cầu siêu con cháu thành tâm công đức để tu sửa chùa.
4. Lễ chung thất (49 ngày) và tốt khốc (100 ngày) :
Có nơi chỉ cúng 49 ngày (終七, tức là lễ chung thất). Thế tục cho rằng 49 ngày đó là thời kỳ vong linh còn mờ mịt, nổi chìm chưa định, nên phải cúng vong để giúp được chuyển sinh vào chỗ thiện. Theo thuyết của Phật giáo: vừa mới chết, hồn người chết bị Thành Hoàng là vị thần cầm sổ bộ điạ phương phái Ngưu Đầu và Mã Diện áp tải đến tra án trong 49 ngày về những hành vi thuở sinh còn sống, qua 7 lần phán xét, mỗi lần 7 ngày đi qua một điện ở âm ty (tức 1 tuần, nhưng không phải tuần lễ theo dương lịch); sau 7 tuần vong hồn đã siêu thoát sẽ tự do hay bị gông cùm tuỳ theo tội trạng.
Làm chay: thường thực hiện trong tuần Tứ cửu (cúng 49 ngày) đối với người chết bất đắc kỳ tử. Đàn chay lập ra gồm 3 tầng: trên cùng là tượng Tam bảo được thay bằng 3 bình hương; tiếp theo là tượng Tam phủ (Trời, đất, Nước gồm Thiên Quang, Thoích Ca và Thành Hoàng; dưới cùng là ban thờ chúng sinh. Khi tiến hành có Lễ Phật, lễ Tam phủ, Cầu vong, phá ngục, giải oan cắt đoạn, phóng sinh và cúng cháo.
Có nơi cúng hết 100 ngày (卒哭, tức lễ tốt khốc nghĩa là thôi khóc) với ý nghĩa là thời gian này âm hồn vẫn còn phảng phất luẩn quẩn trong nhà chưa đi xa.
5. Tiểu tường, 小祥:
Thế tục cho rằng 49 ngày đó là thời kỳ vong linh còn mờ mịt, nổi chìm chưa định, nên phải cúng vong để giúp được chuyển sinh vào chỗ thiện. Do vậy giỗ đầu là tiểu cát tường, được thực hiện đúng 1 năm sau ngày mất. Khi đó con cháu phải mặc tang phục và lúc tế lễ cũng khóc như khi đưa ma. Đồng thời sắm sanh đồ mã gồm đủ vật dụng hàng ngày xưa kia của người hưởng giỗ, có thêm hình nhân để giúp việc. Đây chính là mã biếu để người quá cố đem biểu các ác thần tránh sự quấy nhiễu.
6. Đại tường, 大祥 :
Niên quang tự tiễn 年光似箭, thời gian qua mau như tên bắn, thoắt cái đã đến lần giỗ thứ 2, giỗ đại cát tường. Đây còn gọi là Chung thân chi tang và con cháu cũng mặc đồ tang nhưng sự khóc đau có giảm hơn. Ngược lại việc tổ chức giỗ lớn hơn và việc sắm đồ mã lại chú ý hơn bởi đây là mã nhận mà chính người thân quá cố sẽ được dùng. Trước khi đốt mã có cũng ngay tại mộ và sau đó mã sẽ được hóa trước mộ.
7. Trừ phục, (đàm tế, 除服):
2 tháng sau ngày giỗ hết, tìm ngày Trực trừ thực hiện lễ trừ phục hay bỏ tang. Ngày trực trừ được tính theo Phép ghi 12 chỉ trực 十二 建除法 được viết rõ ở quyển khác. Trước đó 1 tháng gia chủ mặc đồ tang đứng trước ban thờ khấn rằng “Kính lạy…Con là…cùng toàn gia dự định sang tháng vào ngày…sẽ làm lễ đàm cho..nếu được xin báo ứng” sau đó lấy 2 đồng xu ra và lạy khấn “Trên trời lấy nhật nguyệt chia ngày đêm, dưới đất coi âm dương mà phân biệt. Chúng con người trần mắt thịt, mờ mịt không hay vậy xin gieo đồng tiền trông sự báo ứng biết lành mà tới, biết dữ mà xa. Cúi xin bái lạy Hương linh. Cẩn cáo”. Gieo tiền đồng sấp, đồng ngửa là được. Khi chưa được sẽ khấn lại gieo tiếp 2 lần nữa nếu vẫn chưa được sửa lễ xin tiếp hoặc lùi ngày. Trừ phục gồm 3 lễ:
1. Lễ sửa mộ: Ðắp sửa mộ thành mộ tròn.
2. Lễ đàm tế, 談祭: Cất khăn tang. Huỷ đốt các thứ thuộc phần lễ tang, rước linh vị vào bàn thờ chính. Bỏ bàn thờ tang. Thu cất các bức trướng, câu đối viếng.Từ đó mọi hoạt động gia đình trở lại bình thường (cưới xin, đi dự các cuộc vui..).
3. Lễ rước linh vị vào chính điện và yết cáo tổ tiên: Chép sẵn linh vị mới, phủ giấy hay vải đỏ, khi đàm tế ở bàn thờ tang xong thì đốt linh vị cũ cùng với băng đen phủ quanh khung ảnh và văn tế. Sau đó rước linh vị, bát hương và chân dung (nếu có) đưa lên bàn thờ chính, đặt ở hàng dưới. Trường hợp nhà con thứ không thờ gia tiên bậc cao hơn thì vẫn để nguyên bàn thờ như cũ, không phải chuyển bàn thờ mà chỉ cần yết cáo gia thần và yết cáo tổ ở nhà thờ tổ.
8. Cải táng, 改葬:
Người mất, sau ba năm đoạn tang rồi hoặc một vài năm nữa thì con cái lo việc cải táng. Tục cải táng khởi nguồn từ thời Bắc thuộc khi quan lại và thương lái TQ chết tại Nam mà gia đình có nhu cầu đưa xương cốt về chính quốc. Về sau thành lệ và thành phong tục bởi: Một là vì nhà nghèo, khi cha mẹ mất, không tiền lo liệu, mua tạm một cỗ ván xấu, đợi xong ba năm thì cải táng, kẻo sợ ván hư nát thì hại đến di hài; Hai là vì chỗ đất mối kiến, nước lụt thì cải táng; Ba là vì, các nhà địa lý, thấy chỗ mả vô cớ mà sụt đất hoặc cây cối ở trên mả tự nhiên khô héo, hoặc trong nhà có kẻ dâm loạn điên cuồng, hoặc trong nhà đau ốm lủng củng, hoặc trong nhà có kẻ nghịch ngợm, sinh ra kiện tụng lôi thôi, thì cho là tại đất mà cải táng; Bốn là, những người muốn cầu công danh phú quý, nhờ thầy địa lý tìm chỗ cát địa mà cải táng. Lại có người thầy nhà khác phát đạt, đem mả nhà mình táng gần vào chỗ mả nhà kia, để cầu được hưởng dư huệ.
Chọn ngày: tìm hiểu những mộ chôn bên cạnh xem họ cải xương cố đã sạch chưa mà quyết định thời gian. Thường vào dịp cuối năm, trước 23 tháng Chạp vì khi đó thời tiết khô ráo. Sau đó phải tìm ngày. Điều quan trọng nhất trong ngày giờ này là tránh các ngày mà có các sao sau chiếu Thiên cương, Thọ tử, Đại hao, Tử khí, Quan phù (xấu trong mọi việc lớn), Băng tiêu ngoạ giải (kiêng làm nhà và mọi việc lớn), Thổ cấm (kiêng động thổ), Trùng tang, Trùng phục (kỵ hôn nhân, mai táng, cải táng). Nếu không tính được cần nhờ thầy.
Tìm đất, chọn hướng: ban đầu cổ nhân chú ý cả việc chọn đất làm nhà (dương cơ), dựng chùa...và đặt mả (âm phần) và cho rằng “Nhất dương thắng Thập âm”. Nhưng về sau dương cơ chỉ cốt lấy hướng còn âm phần (nơi an táng của người thân) thì được quan tâm đến cả vị trí, thế đất, hình thù đám đất và hướng. Địa điểm lý tưởng cho nơi đặt mộ là có thế đất vuông vức, nằm lưng chừng quả đồi giống hình chiếc ghế bành: phía sau có Hậu chẩm là tựa vào Rùa đen (Huyền Quy), trước mặt có Minh đường là Phượng hoàng đỏ thấp hơn như cái ghế để chân, bên trái có Rồng xanh (tả Thanh Long) nằm cao hơn, bên phải có Hổ trắng (hữu Bạch Hổ). Xa hơn có dòng nước chẩy coi như huyết mạch của đất. Như vậy địa điểm đặt một lành là phải có đủ “Long, Huyệt, Sa, Thủy” và tránh những đám đất méo mó, trước rộng, sau hẹp...việc chọn hướng cần dựa vào mệnh người nằm dưới mộ và tránh hướng Tuyệt mệnh, Hoa hại.
Trường hợp các gia đình quy tập mộ người thân trong một khu thì việc xác định hướng là theo mệnh của người gia trưởng, những thành viên khác sắp xếp theo thứ tự “Tả chiêu hữu mục” 左昭右穆: các đời lẻ về bên tay Trái-hướng Đông, đời chẵn về bên Phải-hướng Tây. Trong bàn đồ thờ Cửu Huyền Thất Tổ cũng sắp xếp Bài vị hay ảnh theo nguyên tắc này.
Chọn mầu gạch: Xưa kia khi cải sẽ đắp mộ tròn. Sau này xây hình dài hoặc tròn tùy gia chủ nhưng đa phần dài. Hiện nay việc quét vôi các ngôi mộ xây đã giảm, đa phần là ốp gạch. Việc chọn mầu gạch cũng theo nguyên tắc sinh vượng của Ngũ hành, Bát quái. Những vấn đề trên tôi chép kĩ ở quyển Lịch pháp và Lý số.
Nghi thức: Trước hôm cải táng làm lễ cáo từ đường. Ðến hôm cải táng, lại làm lễ khấn thổ công chỗ để mả mới táng.
Trước hết khai mả, nhặt lấy xương xếp vào một cái tiếu sành, rẩy nước vang vào rồi che đậy thật kín, không cho ánh sáng mặt trời lọt vào được. Nhà phú quý thì dùng quan quách liệm như khi hung táng đem cải táng sang đất khác. Còn quan tài cũ nát thì bỏ đi, tốt thì đem về dùng hoặc làm cầu, hoặc làm chuồng trâu chuồng ngựa, để trâu ngựa đứng cho khỏi sâu chân. Dân gian tin rằng: Hễ ai đau tức thì lấy mảnh ván thộ (mảnh ván quan tài nát) đốt lên, để gầm giường mà nằm thì khỏi đau tức.
Trong khi cải táng có ba điều là tường thuỵ (tức là mả phát tốt đẹp) mà không cải táng: Một là, khi đào đất thấy có con rắn vàng thì cho là long xà khí vật; Hai là, khi mở quan tài ra thấy có dây tơ hồng quấn quýt thì cho là đất kết; Ba là, hơi đất chỗ đó ấm áp, trong huyệt khô ráo không có nước hay là nước đóng giọt lại như sữa đều là tốt. Khi nào gặp như thế thì phải lập tức lấp lại ngay.
Khi cải táng phải cất mộ ban đêm hoặc sáng sớm khi Mặt trời chưa mọc, hoặc nếu làm ban ngày thì phải có lán che bởi âm dương cách biệt nên phải kiêng không để mặt trời trực tiếp dọi vào. Nhưng, xuất phát từ kinh nghiệm thực tế, có nhiều trường hợp, gặp đất dưỡng thi, hoặc ba điều tường thuỵ (tức mộ kết phát) không nên cải táng, phải lấp lại ngay. Trong trường hợp thi thể sau nhiều năm vẫn còn nguyên vẹn, nếu để ánh nắng mặt trời trực tiếp dọi vào thì rữa ra ngay và teo lại. Mặt khác buổi sáng hay đêm không khí thường trong lành, ít người tụ tập, đỡ độc hại. Vì vậy, để phòng xa nên kiêng ánh mặt trời, lâu ngày trở thành phong tục chung.
Sau khi hoàn thành việc xây phải gắn bia có ảnh, họ tên, năm sinh, năm mất và có thể có câu đối, ví dụ khi xây mộ thân phụ, tôi đã gắn câu: “Công cao mở đất lưu hậu thế, Đức cả rèn con rạng tổ tông”.
9. Kị nhật, 忌日 : hay cát kị thực hiện vào ngày mất (theo âm lịch) từ năm thứ 3 trở đi. Ý nghĩa, đồ lễ, nghi thức đã chép kỹ tại phần cúng giỗ. Thông thường các năm thứ 5, 15, 25.. gọi là giỗ chẵn, năm thứ 10, 20, 30...gọi là giỗ tròn sẽ làm lớn hơn.
10. Chăm sóc mộ phần: là một trong những hình thức thờ phụng. Việc này được thực hiện vào dịp trước Tết, trước ngày cúng giỗ và dịp Thanh minh.
11. Tạ mộ khi mộ bị sụt hay trong gia đình có sự xấu hoặc sẽ chuyển đi xa. Lễ gồm trầu, cau, xôi, chuối, rượu, gà, gạo, muối, vàng, mã. Đồ lễ đặt trước mộ, con cháu khấn vái, chú ý khấn cả Thổ thần nơi đặt mộ (Dẫn hồn sứ giả Ngũ đạo tướng quân, Đương sứ Thổ địa chính thần) và phải viết Sớ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!