1. Đúng ra việc Giỗ Tổ Ngành (Chi) Hai là vào ngày 24 (có chỗ viết 29) tháng 5 (ngày kị của Tổ phụ Lương Công Tú梁公秀) và do hậu duệ cụ Hợp đảm trách.
2. Tổ Chi Hai 第二支祖, cụ Lương Công Tú梁公秀 lấy 4 vợ:
- Bà Cả: ĐÀO THỊ CỎN (Nhượng):
Người cùng làng, trong họ Đào Đăng. Cụ thạo việc, quán xuyến giỏi, không con nhưng rất ghen, không cho chồng lấy vợ lẽ. Tổ tỉ kị ngày 18/2.
Tương truyền : Cụ Đồ Thiệu lập kế, cho người nhà ra cày ruộng của cụ Tú và nói rằng: “anh chị không người nối dõi, ruộng để em làm, không người ngoài họ lấy mất, phí đi”. Cụ Cỏn (Nhượng) biết chuyện, bực quá mới thề rằng: kể cả người ăn kẻ ở, nếu người này có con sẽ lấy làm thiếp cho cụ ông. Ba bà sau đều là tá điền, ngủ với cụ ông sinh con.
- Bà Hai: NGUYỄN THỊ DỤNG:
阮氏用 người Đông Am 東庵, Vĩnh Lại 永賴 (nay thuộc xã Cổ Am huyện Vĩnh Bảo). Mất ngày 19/2.
Sinh 1 Nam là Xưng梁德称, kị 27/2, sinh 2 Nam là Lương Đức Hợp và Lương Đức Hoà.
- Bà Ba: HÒANG THỊ CHÂU:
黄氏周 người Tôn Lộc, không rõ ngày kị và mộ phần, sinh 1 Nam là: Hanh. Họ Hoàng 黃 ở đây vốn gốc họ Mạc 莫 mà gốc ở Cổ Trai, , huyện Nghi Dương (nay là huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng) buộc phải đổi họ tránh diệt tộc sau khi nhà Mạc (莫朝, 1527-1592) đổ. Việc đổi họ này theo nguyên tắc “khử túc bất khử thủ” (去足不去首 bỏ chân không bỏ đầu) trong đó chữ Mạc 莫 (艹日大) bỏ nét ngang 一 ở chữ Đại 大 dưới chân, đưa lên đầu đặt dưới bộ thảo 艹 thành chữ Hoàng 黄(共由八).
Cụ này sinh Lương Đức Hanh梁德亨, kị 15/Chạp, sinh 5 Nam : Hinh, Tuynh, Chinh, Thành (con bà Cả) và Trinh (con bà Hai và là cụ Nội tôi)
- Bà Tư: ĐẶNG THỊ CHIỀN:
鄧氏廛 người Hán Triền, Vĩnh Lại (nay là xã Hưng Long, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương). Sinh 4 nam là Lân, Mã, Ly, Phượng.
3. Mộ phần tại bản quán. Con cháu cư ngụ Mông Tràng Hạ 蒙場下, Hương Lạp 香粒, Tôn Lộc 尊祿 cùng Tổng, đổi là Lương Đức. Về sau một số con cháu vào Nam (1954, 1975), lên Lào Cai (1964-1971), đi nơi khác, số đông vẫn ở lại quê cũ.
4. Theo truyền thống việc Giỗ Tổ Ngành Hai do hậu duệ cụ Hợp đảm trách nhưng con cháu cụ theo Đạo, đi Nam năm 1954 và 1975 nên dòng Trưởng chẳng còn ai ở lại quê. Em là Hoà (em cụ Hợp, sinh 8 nam là Thắng, Liên, Tuế, Sắc, Nhương, Toại, Chuyển, Thiểm) giữ phần hương khói, ở xóm Trại (cách trung tâm xã và nơi phát tích của Tổ gần 2 km).
Quan viên họ thấy tháng 5 bận thu mùa nên đã chuyển việc giỗ họ từ ngày kị Tổ phụ (29/5) sang ngày kị Tổ mẫu (19/2) và có thời thực hiện tại nhà Lương Đức Thực (đời thứ 7, là con ông Tơn, cháu cụ Huỳnh, chắt cụ Tuynh, chút cụ Hanh) ở Hạ (gần Nhà thờ Tổ).
Sau khi L.Đ.Thực mất, từ năm 2006 chuyển sang nhà con Lương Đức Bường là Lương Đức Thành (đời thứ 8 tính từ cụ Tổ chung và là đời thứ 7 tính từ cụ Tổ ngành hưởng giỗ), nghi lễ thường đơn giản. Theo thứ tự các đời tính từ cụ Tổ xuống là: Nghệ - Tú – Xưng – Hòa - Ổn – Liên – Bường –Thành). Như vậy việc Giỗ Tổ ngành bao đơig nay đều do Chi thứ thay thế!
Trên Lào Cai khá đông con cháu đã thực hiện trong các năm 1989, 1993, 2007 tại Phong Niên, nhưng chưa thành phổ biến và một số thành viên chưa tích cực tham gia.
Do năm Giáp Ngọ (ứng với 2014 dương lịch) nhuận tháng Chín cho nên ngày Thanh Minh 2015 (05/4) rơi vào trung tuần tháng Hai âm lịch mà cụ thể là Chủ Nhật, ngày 05/4/2015 tức ngày 17/2 Ất Mùi gần ngày Giỗ Tổ Ngành Hai (19/02). Dịp này, đoàn Lào Cai đã lần đầu về dự Giỗ. Tại buổi giỗ này, ý tưởng, kế hoạch lập Gia phả Chi (Ngành) do Lương Đức Mến đưa ra được mọi người ủng hộ.
Đến 06/01/2019 đã hoàn thành việc in, đóng quyển và gửi cho các “trưởng Bếp”.
5. Năm nay, bởi nhiều nguyên nhân mà mình không thể về dự Giỗ cùng anh em, các cháu được. Viết bài này và thắp nén hương vọng về thay lời khấn trước Tổ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!