Nhân TK năm học 2024-2025 mà cả 2 cháu Nội, 2 cháu
Ngoại tôi đều đạt HSG, được khen. Phấn khích, tôi đã đưa lên Fa và Za nhưng rồi
con tôi can “bố không nên làm vậy, vì đâu
phải ai cũng thế, ngay trong họ nhà mình đó thôi”. Nhận rõ thói đời nên tôi ngưng
và tự dưng muốn đi sâu vào tìm hiểu lĩnh vực mình quá “vô tư” này! Đó là “ghen”
!
“Ghen” trong
tiếng Việt là “Động từ” có hai nghĩa chính, đều liên quan đến cảm xúc tiêu cực:
1. Ghen tuông (Jealousy):Cảm
giác bất an, lo sợ, nghi ngờ về việc mất đi tình cảm của người yêu hoặc bạn đời, thường đi kèm
với sự tức giận, bực bội. Ví dụ, “Ghen tuông trong tình yêu”.
2. Ghen tị (Envy):
Cảm giác khó chịu, bực bội khi người khác có được thứ mà mình không có, hoặc
hơn mình. Ví dụ, “Ghen tị với người khác vì họ có tài năng”.
Nó là một dạng bản năng của con người không thể loại
bỏ mà chỉ có thể kiểm soát bằng lý trí, khả năng tự làm chủ bản thân hoặc thông
qua những mối quan hệ xã hội tích cực, thiện chí, là một trạng thái tình cảm bí
ẩn ngay cả với chính người trong cuộc, đó là hình thức luôn liên quan tới cảm
giác sợ mất mát và luôn có ít nhất 03 đối tượng gồm người ghen, người bị ghen
và người liên quan đến người bị ghen (có
thể là một hoặc một vài người cụ thể nhưng cũng có khi là những đối tượng chung
chung, những đối tượng không tồn tại thật sự ngoài đời hoặc xuất hiện liên quan
đến cuộc sống của những đối tượng ghen và đang ghen như các diễn viên điện ảnh,
ca sĩ, cầu thủ).
Khi ghen thì trong cơ thể sẽ xảy ra các phản ứng cả
về tâm lý và hành động.
Về Tâm lý nó gây các biểu hiện đau đớn về tinh thần,
tức giận, buồn bã, bi quan, ghen tị, sợ hãi, lo lắng về hình ảnh của mình, tự
xót thương mình, cảm thấy bị bẽ mặt ,…
Về Hành động: run rẩy, toát mồ hôi, tự trấn an mình,
có những hành động hung hăng, thậm chí bạo lực,...
Ghen có tính chất bệnh lý là một triệu chứng bệnh lý
của một số bệnh khác nhau trong tâm thần học và nó được coi như là hoang tưởng
với nội dung Ghen. Một bệnh lý nữa có thể gặp hoang tưởng Ghen là bệnh tâm thần
phân liệt dẫn đến Ghen hoang tưởng hay ghen bóng ghen gió.Trong bệnh này, bệnh
nhân cũng có một khẳng định chắc chắn không dựa trên một cơ sở nào là vợ ngoại
tình, không thể giải thích, thuyết phục bệnh nhân, hành vi của bệnh nhân bị rối
loạn nghiêm trọng, thậm chí có thể tự sát vì buồn chán, thất vọng do sự ngoại
tình của vợ.
Đồng nghĩa: ganh, ghen tị, ghen tuông đều thể hiện sự
khó chịu, tức tối, vì biết hoặc ngờ sự thiếu chung thuỷ của vợ, chồng hay người
yêu
Từ xưa đến nay, trong thơ văn hay nhắc đến nó. Ví dụ:
“Ngứa ghẻ đòn ghen” (Thành ngữ);
“Ớt nào là ớt chẳng cay, Gái nào là gái chẳng hay
ghen chồng?” (Ca dao);
Bài “Ghen” của Nguyễn Bính (1918–1966) trong tập Lỡ bước sang ngang (1940)
Cô nhân tình bé của tôi ơi!
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười
Những lúc có tôi, và mắt chỉ
Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi.
Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai,
Đừng hôn dù thấy bó hoa tươi.
Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ,
Đừng tắm chiều nay biển lắm người.
Tôi muốn mùi thơm của nước hoa,
Mà cô thường xức, chẳng bay xa,
Chẳng làm ngây ngất người qua lại,
Dẫu chỉ qua đường khách lại qua.
Tôi muốn những đêm đông giá lạnh,
Chiêm bao đừng lẩn quất bên cô,
Bằng không, tôi muốn cô đừng gặp
Một trẻ trai nào trong giấc mơ.
Tôi muốn làn hơi cô thở nhẹ,
Đừng làm ẩm áo khách chưa quen.
Chân cô in vết trên đường bụi,
Chẳng bước chân nào được giẵm lên.
Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi,
Thế nghĩa là yêu quá mất rồi,
Và nghĩa là cô và tất cả,
Cô, là tất cả của riêng tôi.
Bài “Vịnh Thúy Kiều” của Nguyễn Công Trứ (阮公著, 1778–1858)
Đã biết má hồng thời phận bạc
Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng
Chiếc quạt thoa đành phụ nghĩa Kim lang
Nặng vì hiếu, nhẹ vì tình thời cũng phải
Từ Mã Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải
Cánh hoa tàn đem bán lại chốn thanh lâu
Bấy giờ Kiều còn hiếu vào đâu
Mà bướm chán ong chường cho đến thế?
Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm!
Bán mình trong bấy nhiêu năm
Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai!
Nhưng có thể
nói không ngoa rằng nhắc nhiều đến từ này là Đại Thi hào Nguyễn Du (阮攸, 1766 – 1820) tên tự là Tố Như 素如, hiệu là Thanh Hiên 清軒, biệt hiệu là Hồng
Sơn lạp hộ 鴻山獵戶, Nam Hải điếu đồ 南海釣屠. Nguyễn Tiên sinh
dùng nhiều từ này trong Truyện Kiều 傳翹. Tuy là một tác phẩm gồm 3254 câu được viết theo thể
lục bát mang đậm âm hưởng của ca dao truyền thống dựa theo tác phẩm văn xuôi
lãng mạn Kim Vân Kiều truyện 金雲翹傳 của Thanh Tâm tài
nhân (青心才人, 1521 - 1593) người đời Minh (大明,1368-1644) bên Trung Quốc,
song vẫn phản ánh sâu sắc tinh thần dân tộc với những giá trị truyền thống của
người Việt Nam. Truyện Kiều (tên gốc là
Đoạn Trường Tân Thanh 斷腸新聲) là tác phẩm nổi tiếng
nhất của đại thi hào Nguyễn Du , kiệt tác của văn học Việt Nam thời trung đại
và với nó, Nguyễn Du đã được tôn vinh là Danh nhân văn hóa thế giới.
Trong tác phẩm này, cụ nhắc nhiều dến từ “ghen”, ví
dụ:
Câu 5. “Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói
má hồng đánh ghen” 邏之彼嗇斯豐 𡗶撑涓貝𦟐紅打㭴.
Câu 1609: “Nghĩ rằng: Ngứa ghẻ hờn ghen, Xấu chàng
mà có ai khen chi mình…” 擬浪𤻭𤴪𢤞悭 醜払麻固埃𠸦之命.
Lại còn câu: 1873. “Bây giờ mới rõ tăm hơi, Máu ghen đâu có lạ đời nhà
ghen” 悲𣇞買𤑟沁唏 𧖱慳兜固邏𠁀茹慳,
Rồi câu 2109.
“Thực tang bắt được dường này, Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng” 寔賍扒特羕尼 𧖱悭埃拱𠺾眉哯𪘵,
Lại tiếp câu 2153. “Nghĩ đời mà ngán cho đời, Tài
tình chi lắm, cho trời đất ghen" 𢪀𠁀麻喭朱𠁀 才情之𡗋朱𡗶坦.
Nhất là câu 2365. Bày tỏ: “Rằng: Tôi chút dạ đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường
tình” 浪碎拙胣弹妑 悭𡀢時拱𠊛些常情
…
Trong đời sống văn học, nhân vật Hoạn
Thư 宦姐 là một biểu tượng đặc biệt: đi thẳng
từ trang sách vào đời sống với câu nói “ghen như Hoạn Thư” và chuyện ấy được Đại
Thi hào họ Nguyễn mô tả ở Hồi 15: “Hoạn Thư ghen tuông
lập kế” nó ứng với Hồi 14 trong
nguyên truyện: “Hoạn Ưng Khuyển di hoa
tiếp mộc; Vương mỹ nhân bách chiết thiên ma” 宦鷹犬移花接木;王美人百折千磨 tạm dịch là: Lũ Ưng
Khuyển thay hoa chắp cánh; Gái hồng nhan trăm tủi ngàn sầu.
Trong này,
Hoạn Thư 宦姐 được nhắc đến lần đầu tại câu thơ thứ 1529: “Vốn
dòng họ Hoạn danh gia, Con quan Lại bộ tên là Hoạn thư”. 本𣳔户宦名家 昆官吏部𠸜羅宦姐 kết bằng lời thú tội của Thúc Sinh tại câu 1949
và 1950: “Vì ta cho lụy đến người, Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh!” 爲些朱累典𠊚 吉淋玉𤽸舌𠁀春撑[1]
Qua ngòi
bút của Nguyễn Du, Hoạn Thư là người phụ nữ xinh đẹp, thông minh, sắc sảo hơn
người “Ở ăn thì nết cũng hay, nói điều ràng buộc thì tay cũng già” 於咹時𢟗拱咍 呐調𦀾𦄾時𢬣拱𦓅. Nhưng, cái nổi bật của Hoạn Thư là những màn
đánh ghen thuộc loại “xưa nay hiếm” 古來稀 .
Khi biết chồng trăng hoa,
Hoạn Thư kín như bưng, nhưng sau đó sai người bắt cóc Kiều 翠翹, biến Kiều thành kẻ ở, người hầu trong nhà. Hành hạ nàng Tiểu thư hành hạ Thúy Kiều kiểu:
“Nhẹ như bấc, nặng như chì”, Gỡ
cho ra nữa còn gì là duyên?” 弭如苝𥘀如鈘 攑𠚢朱塊群咦羅緣.
Đặc sắc nhất trong suốt
cuộc đánh ghen là khi Hoạn Thư bắt Thúy Kiều đàn hát, hầu rượu cho Thúc Sinh 束生[2]. “Bắt khoan bắt nhặt đến lời, Bắt quỳ tận mặt bắt mời tận tay” 扒寬扒日旦𠳒 扒跪羨𩈘扒𠶆羨𢬣 đến nỗi “Cùng
chung một tiếng tơ đồng” 拱沖𠬠㗂絲桐 mà “Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm” 𠊛外唭𦵚𠊛𥪞哭吟.
Khi bắt được Thúc Sinh trốn
đến gặp Kiều ở Quan âm các 觀音閣, Hoạn Thư vui vẻ chào hỏi
hai người, khen tài hoa Thúy Kiều rồi khoác tay chồng cùng về nhà như không hề
biết chuyện gì. Đây cũng một trong những phân đoạn thể hiện rõ nhất phương thức
đánh ghen độc đáo của Hoạn Thư. Đúng là: Đàn bà thế ấy thấy âu một người 弹妑羕意体欧𠬠𠊛 rồi biện
minh: “Rằng: Tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình” 浪碎拙胣弹妑 悭𡀢時拱𠊛些常情. Đến nỗi “người trong cuộc” là Thúy Kiều còn băn khoăn “Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen” 爫𠚢𠱾拱𠚢𠊚𡮈然 !
Cũng chính bởi những màn
đánh ghen “có một không hai” mà Hoạn Thư trở thành nhân vật gây tranh cãi nhất
trong Truyện Kiều. Nhiều nhà nghiên cứu nhìn Hoạn Thư là một nhân vật phản diện,
là biểu tượng của cái ghen khủng khiếp, một con người lắm mưu, nhiều kế, một kẻ
ác độc đến tàn nhẫn, sẵn sàng chà đạp lên phẩm giá con người để trả mối tư thù.
Tuy nhiên, một số nhà
nghiên cứu nhìn Hoạn Thư theo hướng tích cực, Hoạn Thư cũng chỉ là một nạn
nhân, một nhân vật bi kịch của chế độ đa thê trong xã hội phong kiến đương thời.
Theo các nhà nghiên cứu,
Hoạn Thư chính là một nhân vật đa diện, đời thường nhất bởi chứa đựng các tính
cách của một con người. Hoạn Thư ghen tuông và trả thù, nhưng cũng luôn tỉnh
táo biết dừng thậm chí còn thương cảm cho Kiều, .
Vì thế, Hoạn thư đã đi thẳng
vào đời sống, trở thành một danh từ chung bất hủ mà Nguyễn Du đã đóng góp vào vốn
từ vựng Việt Nam. Người đời nhắc tới Hoạn Thư không còn nhắc tới sự ác cảm, Hoạn
Thư chỉ dùng để miêu tả về những người hay ghen. Máu Hoạn Thư, ghen như Hoạn
Thư… là những từ rất phổ biến.
Song giận thay những kẻ
không hề “ngứa ghẻ” mà “giận lẫy”, làm cản thì quả không nên chút nào!
Dù sao đi nữa thì “ghen” là xấu, là không tốt.
Đó là “âm thuần Việt” được viết bởi chữ 慳. Chữ này
còn được đoc là “khan, khiên, kiên”; có 14 nét; thuộc bộ:
tâm (心/忄61)và 11 nét; mã Unicode
là U+6173.
-Lương Đức Mến, Chiều thứ Hai,
28/5/Ất Tỵ-
[1] Khi biết chuyện (Thúy Kiều-Thúc
Sinh), cha Thúc sinh nổi giận đòi trả Kiều trở về chốn cũ, nhưng khi nhận
thấy Thuý Kiều tâm hồn đức hạnh lại tài sắc vẹn toàn, có tài làm thơ, cha của Thúc
sinh cũng đành thừa nhận Kiều:
Thương vì hạnh trọng vì
tài,
Thúc ông thôi cũng dẹp lời
phong ba.
Kiều đã ở cùng Thúc sinh suốt một năm ròng và
vẫn luôn khuyên Thúc sinh về thăm vợ cả Hoạn thư, họ vẫn chưa có con chung sau
nhiều năm sống cùng nhau. Sau chuyến đi thăm và quay trở lại gặp Kiều, Thúc
sinh không ngờ rằng Hoạn thư đã sai gia nhân đi tắt đường biển để bắt Thuý Kiều
về tra hỏi. Thuý Kiều bị tưới thuốc mê bắt mang đi, còn mọi người trong nhà lúc
đó cứ ngỡ cô bị chết cháy sau trận hỏa hoạn. Kiều trở thành thị tì nhà Hoạn thư
với cái tên là Hoa Nô 花奴. Lúc Thúc sinh về nhà,
nhìn thấy Thuý Kiều bị bắt ra chào mình, "phách lạc hồn xiêu", chàng
nhận ra rằng mình mắc lừa của vợ cả. Hoạn thư đã bắt Kiều phải hầu hạ, đánh đàn
cho bữa tiệc của hai vợ chồng. Đánh đàn mà tâm trạng của Kiều đau đớn và rất buồn
bã:
Bốn dây như khóc như
than,
Khiến người trong tiệc
cũng tan nát lòng.
Cũng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ, người
trong khóc thầm.
Thế rồi, do thấy Kiều khóc nhiều, Thúc sinh bảo
Hoạn thư tra khảo vì lý do gì. Thúy Kiều viết tờ khai nói rằng vì cha bị oan
khiên, phải bán mình và bị lừa vào lầu xanh, sau đó có người chuộc ra làm vợ, rồi
chồng đi vắng, nàng bị bắt đưa vào cửa nhà quan... rất tủi nhục, bây giờ chỉ
mong được vào chùa tu cho thoát nợ trần. Đọc tờ khai xong, Hoạn thư đồng ý cho
Hoa Nô vào Quan Âm các 觀音閣)sau vườn để chép kinh.
Thực ra, Hoạn thư đánh Kiều rất nhiều, Nguyễn Du miêu tả về "đòn
ghen" của Hoạn thư là "nhẹ như bấc, nặng như chì". Hoạn Thư đã ứng
xử theo thường tình hiện hữu của dân gian, là "chút dạ đàn bà, ghen tuông
thì cũng người ta thường tình!"," Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho
ai". Hoạn Thư khéo léo phá vỡ dây tơ giữa Kiều và Thúc sinh, làm Kiều ra
đi một cách tự nguyện. Kiều trốn khỏi Quan Âm các và đã gặp vãi Giác Duyên 覺緣. Bà đã cho Kiều sang ở tạm nhà Bạc bà 薄(婆, nghĩa là " bà họ Bạc"),
một Phật tử thường hay lui tới chùa. Ai ngờ "Bạc bà cùng với Tú bà đồng
môn", Bạc bà đã khuyên Kiều lấy cháu mình là Bạc Hạnh 薄幸. Qua tay Bạc Hạnh, một lần nữa Kiều lại bị bán vào lầu xanh
[2] Thúc sinh (束生, nghĩa là "thư sinh
họ Thúc") tuy đã có vợ là Hoạn thư (宦姐,
nghĩa là "chị Hoạn") nhưng
cũng là người "mộ tiếng Kiều nhi" từ lâu. Thúc sinh trong tác phẩm
này có lẽ là có diễn biến tình cảm, tâm tư mang tính của con người trong
"đời thường" nhất, chứ không cách điệu nhiều như những nhân vật khác
trong tác phẩm. Thế giới của Thúc sinh là thế giới của đam mê và là sứ giả
phong lưu của tình dục. Chưa có một "đấng nam nhi" nào trong truyện
Kiều có cách nhìn nâng tấm thân của Kiều lên tầm thẩm mỹ như Thúc Sinh
Rõ màu trong ngọc trắng
ngà!
Dày dày sẵn đúc một tòa
thiên nhiên...
Do vậy Kiều đã ham sống và tự tin hơn về tương
lai số phận của mình. Hai người vui vẻ bên nhau "ý hợp tâm đầu".
Khi hương sớm khi trà
trưa,
Bàn vây điểm nước đường
tơ họa đàn...
Thúc sinh đã chuộc Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh.
Tuy nhiên, vì là gái lầu xanh Kiều đã không được Thúc ông (束翁, nghĩa là "ông Thúc"), cha của Thúc sinh, thừa nhận.
Thúc ông đã đưa Kiều lên quan xét xử:
Phong lôi nổi trận bời bời,
Nặng lòng e ấp tính bài
phân chia.
Quyết ngay biện bạch một
bề,
Dạy cho má phấn lại về lầu
xanh!...
Kiều cam tâm chịu kiếp lẽ mọn để được hưởng hạnh
phúc yên bình của gia đình, tuy không được trọn vẹn với Thúc Sinh. Không chịu
quay về lầu xanh nên lại thêm một lần nữa Kiều gặp cảnh khốn khổ:
Dạy rằng: Cứ phép gia
hình!
Ba cây chập lại một cành
mẫu đơn.
Phận đành chi dám kêu
oan,
Đào hoen quẹn má liễu tan
tác mày.
Một sân lầm cát đã đầy,
Gương lờ nước thủy mai gầy
vóc sương.
Thấy Thúc sinh đau khổ khi thấy Kiều vì mình
mà gặp nạn, quan kia đã cho Kiều làm một bài thơ bày tỏ nỗi niềm. Đọc thơ của
Kiều, vị quan khen ngợi rồi khuyên Thúc ông nên rộng lượng chấp nhận Kiều lại
cho đồ sính lễ cưới xin. Nhờ thế Kiều thoát kiếp thanh lâu nhưng chưa được bao
lâu thì nàng lại mắc vạ với Hoạn Thư, vợ cả của Thúc Sinh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!