Theo truyền thống, tôi vẫn theo
như xưa cũ. Tức là vẫn sử dụng các bài Khấn cũ, đã dùng nhiêu năm, chỉ thay mốc
thời gian (Thái Tuế và Hành Khiển, Hành
Bình, Phán Quan) theo bảng mà bản thân đã lập sẵn cho 120 năm (và cũng đã đưa lên Blog này).
Nếu ai đó, có lúc nào e rằng các Thần thời gian đó là rặt là các vị Vua, ông Quan
bên Trung Hoa thì chỉ khấn chung chung là Thần quản thời gian Đương cai Giáp Thìn niên và Tân
cái Ất Tỵ niên (cả Thái tuế Đại tướng
quân lẫn Vương Hành Khiển, Binh Chi Thần, Tào Phán quan) mà khỏi kêu đích danh vị Thần nào.
Đồng thời nhớ
rằng năm âm lịch hiện tại vẫn là năm Giáp Thìn 甲辰 Long niên 龍蛇 (năm con Rồng); Sau Tết là năm Ất TỴ 乙巳 Xà niên 蛇蛇 (năm con Rắn).
Lại Chú ý rằng 12 con giáp trong hệ
Can Chi gồm 12 Thập Nhị địa chi: 十 二 地 支 được gọi đơn giản là với các loài
vật như: Tý 子 (Chuột 鼠, Thử)) - Sửu 丑 (Trâu/Bò 牛, Ngưu )
- Dần 寅 (Hổ, 虎 Cọp) - Mão 卯 (Mèo/Thỏ 兔,Thó )
- Thìn 辰 (Rồng 辰, Long) - Tỵ 巳 (Rắn, 蛇, Xà) - Ngọ 午 (Ngựa, 馬 Mã) - Mùi
(Dê/Cừu 羊 Dương) - Thân 申 (Khỉ 猴 Hầu) - Dậu 酉 (Gà, 鸡 Kê) - Tuất 戌 (Chó, 狗 Cẩu) - Hợi 亥 (Lợn, 猪 Trư). Trong
dó có 6 cặp địa chi tạo thành 6 cặp đối xung nhau: 3 bộ tứ hành
xung (Dần – Thân; Tị - Hợi; Thìn – Tuất;
Sửu – Mùi; Tý – Ngọ; Mão – Dậu), 4 bộ tam hợp (Thân – Tý –Thìn; Dần – Ngọ - Thân; Hợi – Mão – Mùi; Tị - Dậu – Sửu),
6 cặp nhị hợp (Sửu – Tý; Dần - Hợi; Tuất - Mão; Dậu – Thìn; Tị - Thân; Ngọ - Mùi); 6 cặp
tương hại (Dậu - Tuất; Thân
- Hợi; Mùi – Tý; Ngọ - Sửu; Tị - Hợi; Mão - Thìn).
Chia ra có 6 Địa chi Âm (Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi)
và 6 Địa chi Dương (Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân,
Tuất).
Có 10 Thiên Can 天 干, gồm: Giáp 甲; Ất 乙;
Bính 丙; Đinh 丁; Mậu 戊;
Kỷ 己; Canh 庚; Tân 辛;
Nhâ 壬; Quý 癸. Gồm 5 cặp hợp nhau (Ất hợp Canh, Bính hợp Tân, Đinh hợp Nhâm, Mậu
hợp Quý, Kỷ hợp Giáp), 10 Phạt nhau (Canh
hình Giáp, Tân hình Ất, Nhâm hình Bính, Quý hình Đinh, Giáp hình Mậu, Ất hình Kỷ,
Bính hình Canh, Đinh hình Tân, Mậu hình Nhâm, Kỷ hình Quý). chia thành 5
Thiên can Âm (Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý)và
5 Thiên can Dương (Giáp, Bính, Mậu, Canh,
Nhâm), mỗi cái mang những thuộc tính Ngũ hành khác nhau.
Khi 12 địa chi gắn với 10 thiên can (Can dương phải kết hợp với Chi dương và Can âm phải kết hợp với Chi âm)
thành một cặp mới (bắt đầu từ can Giáp và
chi Tý tạo ra Giáp Tý, sau đó đến can Ất và chi Sửu tạo ra Ất Sửu và cứ như vậy
cho đến hết hàng Can (Bính,..., Quý) và hàng Chi (Dần..., Hợi). Sự kết hợp như vậy tạo thành một
chu kì, hết can (hoặc chi) cuối cùng thì nó tự động quay trở lại cho đến tổ hợp
cuối cùng là Quý Hợi lại tiếp Giáp Tý, Ất Sửu, ,... Có tổng cộng 60 (bằng BSCNN của 10 và 12)
là tên hoàn chỉnh chỉ Giờ, Ngày, Tháng, Năm trong lịch Âm (Chu kỳ Hoa Giáp).
Đồng thời mỗi bài văn khấn tôi đều in ra giấy, khấn xong là "hóa" để "các cụ thấu hiểu" đúng nghi thức CUNG PHẦN SỚ VĂN mà tiền nhân truyền lại mà khi con sống, phụ thân tôi vẫn thực thị.
- Lương Đức Mến, ngày 28 (lấy làm 29 Tết)-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!