Nhiều người và cả nhiều tờ lịch nói và viết rằng “năm âm lịch 2021” là năm Sửu! Chính xác hơn đó là Tân Sửu nhưng “sửu” tuy cổ nhân gán cho nó là “ngưu” nhưng cụ thể là con TRÂU hay con BÒ thì đâu phải dễ thống nhất!
1.12 Địa Chi trong phép làm lịch
Sửu 丑 là chi thứ 2 của 12 chi (thập nhị chi 十二地支) trong hệ can chi 干支 của âm lịch 陰曆 theo thứ tự từ 1 đến 12 là : Tý 子 (1), Sửu 丑 (2), Dần 寅 (3) , 卯 Mão (4), Thìn 辰 (5), Tỵ 巳 (6), Ngọ 午 (7), Mùi 未 (8), Thân 申 (9), Dậu 酉 (10), Tuất 戌 (11), Hợi 亥 (12).
Cổ nhân đã gán cho mỗi giờ một con vật nên với 12 địa chi được gán 12 con vật Chuột 鼠, Trâu 牛, Hổ 虎, Mèo 貓 (Thỏ 兔), Rồng 龍, Rắn 蛇, Ngựa 馬, Dê 羊, Khỉ 猴, Gà 雞, Chó 狗, Lợn 豬 gọi là “cầm tinh”. Trong đó có 7 con vật nuôi (trâu, ngựa, chó, dê, lợn, mèo, gà), 4 con vật hoang dã (khỉ, hổ, chuột, rắn) và duy nhất con vật không có thật là con rồng.
Nhớ rằng: khi làm lịch, người phương Đông lấy lúc mặt trời đứng bóng là mốc tính giữa ngày và chia ngày làm 12 phần bằng nhau. Giờ đầu tiên sẽ vào giữa đêm (tương đương 0h00 của phương Tây), chính xác giờ Tý từ 23h ngày hôm trước đến 1h ngày hôm sau; ban ngày tính giờ Dần (tức 4 giờ sáng) đến giờ Thân lúc 4 giờ chiều, mặt trời đứng bóng là chính Ngọ. Mỗi giờ như vậy lại chia ra Sơ và Chính, ngày cũng gồm 24 phần như ngày nay. Trong một ngày hai nửa giờ Tí không liên tục, 23 giờ hôm trước gọi là Tí Sơ, 0 giờ là Tí Chính, 1 giờ là Sửu Sơ, 2 giờ Sửu Chính...Người Trung Quốc còn chia ngày thành 100 phần gọi là Khắc bằng 14 phút 24 giây (cũng có tài liệu nói rằng Khắc bằng 1/5 giờ là 12 phút). Người phương Tây thì chia thành 24 giờ.
Do vậy 12 giờ âm lịch tương đương 24 giờ trong dương lịch và đặt tên hợp tập tính con vật được gán: Tí (nửa đêm, khi Chuột hoạt động mạnh) ứng với 23 – 01 giờ dương lịch, Sửu ứng với 01 – 03 giờ (trâu thường thưc giấc gõ sừng đánh tiếng, nhai cỏ chờ sáng ra đồng) , Dần ứng với 03 - 05 giờ (Hổ dậy đi rình mồi), Mão ứng với 05 - 07 giờ, Thìn ứng với 07 - 09 giờ, Tỵ ứng với 09 - 11 giờ, Ngọ ứng với 11 - 13 giờ (Ngựa nghỉ ngơi), Mùi ứng với 13 - 15 giờ, Thân ứng với 15 - 17 giờ (Khỉ về hang), Dậu ứng với 17 – 19 giờ (Gà lên chuồng), Tuất ứng với 19 – 21 giờ (Chó gác cửa), Hợi ứng với 21 – 23 giờ (Lợn ngủ kỹ). Viết đến đây chợt nhớ chuyện mấy ông “thầy” ngày nay khi chọn ngày, xem giờ cho các “đương số” hay phán: phải xy giờ kz phút ,...rõ là “đem râu ông nọ cắm cằm bà kia”! Thế mà kiếm ối tiền thiên hạ!
Ngoài phép ghi giờ theo hệ đếm Can Chi phản ánh bản chất của định lượng thời gian, không gian theo quan điểm cổ truyền mà còn sử dụng trong phép ghi ngày, tháng, năm trong Âm lịch.
Việc gán 12 con vật cho 12 chi (cũng là 12 giờ theo âm lịch) chỉ là để dễ nhớ mà thôi, không liên quan gì đến ngữ nghĩa. Trên phương diện đó, “Sửu” 丑 và “Ngưu” 牛 cũng chỉ là gán con vật cầm tinh, chứ không liên quan về ngữ nghĩa 丑có nghĩa là 牛!
Điều đó cũng có nghĩa rằng, 12 con giáp (sinh tiêu) và từ ghép như Tý Thử 子鼠 , Sửu Ngưu 丑 牛, Dần Hổ 寅虎, Mão Miêu 卯貓, Thìn Long 辰龍, ….Hợi Thỉ 亥豕 chỉ để nhắc nghĩa nguyên thủy của các con vật gán cho địa chi tương ứng chứ không hề tương ứng về mặt ngữ nghĩa!.
2.Về từ “Ngưu” 牛
Trước khi tìm hiểu kỹ về chữ này, ta nên biết trong danh pháp âm lịch, chi thứ tư là 卯, Hán Việt đọc là “Mão” thì với lịch Việt ứng với con “mèo” mà âm Hán Việt là “miêu” 貓 nhưng trong lịch Hán lại ứng với con “thỏ”, tức “thố” 兔 !
“Ngưu” là âm Hán Việt chỉ chữ “牛”, còn Phanh âm đọc là “niu2”, được đa số các từ điển dịch là “con Trâu”, có từ điển dịch là “Trâu Bò” (公 牛 Bò đực, 鬥牛 Đấu bò tót; 放牛 Chăn trâu), có từ điển giải thích 牛 là “con bò”, “thủy ngưu” 水牛 mới là “con trâu”.
Người Trung Quốc hiện đại dùng từ kép “thuỷ ngưu” 水牛, tức shui3 niu2 chỉ con trâu; còn con bò là “mẫu ngưu” 母牛, tức mu3 niu2 hoặc “Hoàng ngưu” 黄牛 và hoả ngưu 火牛. Như vậy, với người Trung, “牛” (ngưu) là danh từ chỉ chung cho “trâu bò” cần thêm chữ nữa mới rõ là con Trâu hay con Bò!.
Nói gì thì nói, từ “ngưu” chỉ loài động vật thuộc họ Trâu bò (Bovidae), phân bộ Nhai lại (Ruminantia), nhóm sừng rỗng (Cavicornes), bộ Guốc chẵn (Actiodactyla), lớp Thú có vú (Mammalia), ngành có Dây sống (Chordata), sống hoang dã hoặc đã được thuần hóa.
Nhưng giữa chúng vẫn có sự khác biệt. Da Bò được phủ một lớp lông dày nên bò chịu được nắng nóng và lông chúng có màu đen, vàng, lang đen (có các đốm trắng trên nền đen), lang vàng (đốm trắng trên nền vàng) nhưng hiếm. Trâu có bộ lông thưa (lông và da đồng màu), kém chiụ nắng nóng, thích dầm nước và lông Trâu chỉ có hai màu: đen (trâu đen); trắng (mắt, móng chân, sừng, cả bộ phận sinh dục, vùng đồng bằng Bắc Bộ không thấy).
Với người Việt “Ngưu” là “Trâu” nên đơn giản năm Sửu “cầm tinh con Trâu”, chứ không có cách nói năm 2021 “辛丑牛年” (Tân Sửu Ngưu niên) như người Trung Quốc!
Người Đại Việt có những câu rất hay về con Trâu, ví dụ “Yếu Trâu hơn khỏe Bò” hay “Con Trâu là đầu cơ nghiệp” lại có câu “Ngu như Bò”! Xem thế đủ biết, dân ta rất rạch ròi và đặc biệt quý trong ông “bạn nhà Nông” này!
Bản thân người soạn bài này hồi 6, 7 tuổi ở quê (Hải Phòng) đã từng sáng sớm đưa trâu ra đồng ở Kim Côn để thầy tôi cày bừa. Nhưng mãi sau này, khi đã lên Lào Cai (từ 1964) mới thấy và biết đến con bò!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!