[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


12 tháng 1 2013

Mấy điểm sai khi dùng âm Hán Việt trong việc họ

Việc dùng sai từ Hán Việt trong cúng giỗ, chép Gia phả, đề chữ ở Lăng mộ không chỉ diễn ra ở nơi “chín người mười làng” như trên Lào Cai, mà diễn ra ngay cả vùng đất cổ Hải Phòng. Ngoài việc chữ viết xấu, sai nét, tựu trung lại, người cao tuổi thì lẫn, mắt mờ, tay run; người trẻ chẳng biết chữ Hán, chẳng chịu tìm hiểu nên thường xẩy ra mấy điểm sai phổ biến như sau:
1. Dùng từ Hán Việt với văn phạm Việt:
Gọi “Trưởng họ” là đúng bởi “họ” là từ thuần Việt, muốn dùng Hán Việt phải nói là “Tộc trưởng” 族長 nhưng nhiều người vẫn gọi “trưởng tộc”! Giống như liên quan đến “tang ma” 居喪 phải gọi là “Tang lễ” 喪礼, nói “Lễ tang” là chưa chuẩn!
2. Dùng lẫn tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt:
“Xóm”, “số nhà”... là từ thuần Việt. Ví dụ định viết số nhà 14 phố Trần Tất Văn, thị trấn An Lão, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng thì theo văn phong Hán Việt phải viết: Hải Phòng thị, An Lão huyện, Trần Tất Văn nhai (lộ), thập tứ hiệu 海防巿安老縣陳必文街()拾四号 nhưng lại viết và khấn là: Hải Phòng thành, An Lão huyện, Trần Tất Văn phố, số nhà 14 thì chưa đúng!.
Ông gọi là Tổ khảo 祖考, Bà là Tổ tỷ 祖妣. Nhưng thường chỉ Cụ ông gọi đúng: Cao Tổ Khảo, Tằng Tổ khảo, Tổ khảo còn đối với các Cụ bà thì đời nào cũng gọi là “Tổ bà” hết. Gọi vậy là sai bởi “Tổ” là chỉ bậc “ông, bà”  trên nữa là “Tằng” , “Cao” , “Cao cao” 高高...và tổ là từ Hán Việt còn “bà” lại là từ thuần Việt không thể ghép vậy được. Hơn nữa gọi là “tổ bà” nghe thiếu trang trọng lại có phần khiếm nhã!. Đối với các cụ bà phải gọi là “Tổ tỉ”, “Tằng Tổ tỉ”, “Cao Tổ tỉ”...Tương tự như vậy, nếu chỉ người đàn bà có chồng đã chết phải gọi người đàn bà góa (檀婆寡, toàn Nôm) hay người quả phụ (寡父,toàn Hán Việt), gọi “góa phụ” là chưa đúng.
Hay như viết “Từ đường họ Lương”  cũng không chuẩn mà phải ghi “Lương tộc Từ đường” hay “Nhà thờ họ Lương”.
3. Sai nghĩa gốc Hán Việt.
Người học chữ Nho xưa vắng dần. Nay các cháu chỉ học Anh văn và nếu có học Trung văn thì là tiếng Hán hiện đại, với chữ Giản thể. Mấy ai còn rành âm Hán Việt và chữ Phồn thể. Song cần nhớ những danh xưng Hán Việt thường gặp trong cúng giỗ ví như người Cha khi còn sống gọi là “phụ” , chết gọi là “khảo” , rước vào miếu thờ gọi là “nỉ” .
 Như vậy đàn ông gọi là “khảo”, đàn bà kêu là “tỉ” sau từ chỉ ngôi thứ. Đặc biệt nhớ rằng đời sau mà dùng bài văn khấn của đời trước phải tăng lên một bậc. Do vậy khi khấn cúng hay đề bia mộ tốt nhất nên khấn, viết đại từ chỉ rõ số đời: Đệ Nhất (Nhị, Tam...) đại tổ, tức Tổ đời thứ Nhất (Hai, Ba...). Dùng đích danh : Cao tổ, Tằng tổ, Tổ...chỉ đúng với đời người soạn chúc văn hay đề bia. Khi con cháu người đó tiếp thu vô hình trung lại vẫn là “Cao tổ, Tằng tổ, Tổ...” thì nguy, bởi thực tế các cụ đã nâng đời rồi: Cao tổ thành Cao cao Tổ, Tằng tổ thành Cao tổ, Tổ thành Tằng tổ...rồi! Đề chữ ở Bia mộ cũng vậy, nên ghi rõ là “Đời thứ...”!
Một trường hợp hay gặp nữa là các cụ xưa hay viết 梁貴公諱秀字德隆 “Lương quý công húy Tú, tự Đức Long” tức là cụ già tôn kính họ Lương tên là Tú, tự Đức Long. Sau này con cháu chẳng hiểu lại nghĩ cụ là Lương Quý Công...
Tên của 2 cô, bố và chú tôi là: Di, Thị, Thân, Dật (,, , với nghĩa: Vui vẻ, cái chợ, thương yêu, nhàn rỗi) nhưng cô Di ai nấy gọi cô Ri, chú Dật thành chú Rật và chính anh tôi lại đề bia mộ cô Thị là Lương Thị Thi, với biện hộ “ai lại Lương Thị Thị bao giờ” ! Anh có biết đâu họ tên đầy đủ của cô tôi viết bằng Hán tự cho 3 chữ khác nhau: 梁氏市.
Đặc biệt địa danh, cấp hành chính cố hương, phẩm tước của tiền nhân thay đổi theo năm tháng cần tra xét kỹ không rất dễ nhâm.
4. Nhầm chữ cùng âm:
Ngày xưa các cụ đặt tên con cháu theo bộ, theo mối liên quan…khi cần phục chế lại Hán tự chỉ tên cần biết tên của bố, mẹ, anh, em người đó mới chọn được chưa chính xác bởi cũng âm đọc đó nhưng được ghi bởi nhiều chữ với nghĩa khác nhau. Chữ chỉ “họ” cũng vậy. Họ của tôi là Lương, được viết bởi chữ , nghĩa là: Cái cầu, trong từ “tân lương” 澤梁 hay Cái xà nhà trong từ “thượng lương” 上梁.
Thế mà được viết thành chữ (lành hiền, lương thiện) trong khi ghi trên Mộ: 高祖考良貴公諱藝! Đúng ra phần mộ này phải ghi: 第一代祖考梁貴公諱藝之墓. Ở đây tôi thay: 高祖考 bằng: 第一代祖考, thay: 良貴公諱藝 bằng: 梁貴公諱藝 và thêm 之墓. Cũng như vậy đối với mộ bà: thay 高祖妣良氏諱頠  bằng: 第一代祖妣梁貴氏諱頠之墓.
Mặt khác họ nhà tôi mà viết là 凉德 thành “đức mỏng” nguy hại ngay!
5. Sai lệch khi trùng tu:
Những Đại tự, Câu đối đắp ở cổng làng, mộ phần, nhà tổ lâu ngày bị bong tróc, mờ nên khi trùng tu phải đắp, sơn lại. Thợ chẳng biết chữ nên rất dễ tô, đắp sai. Chữ Hán lại vốn lắm nét, một âm Hán Việt được viết bởi nhiều chữ, một chữ lắm nghĩa và nhiều chữ tương tự nhau. Bởi thế mới có chuyện: chữ “Tác” (zuò) thuộc bộ nhân () nghĩa là “nhấc lên” viết thành chữ “Tộ” (zuò) thuộc bộ tâm () với nghĩa “tủi thẹn”; chữ “Ngộ” (gặp) vẽ ra chữ “Quá” (vượt)...
Ví như đôi câu đối “祖功開破光前代; 宗德滋培喻後昆” đọc là: “Tổ công khai phá quang tiền đại; Tôn đức tư bồi dụ hậu côn” đại ý: “Công ơn khai phá của tổ tiên làm vẻ vang đời trước; Đạo đức cha ông bồi đắp làm rạng rỡ lớp sau”. Trong đó chữ “Côn” nghĩa là “nối” nên “hậu côn” là “con cháu sau này” nhưng nếu khi tô vẽ lại thêm bộ “Thuỷ” vào thành chữ “Hỗn” , tức “Hỗn tạp” thì lúc đó “hậu hỗn” nghĩa rất xấu, còn ra gì nữa!
6. Dùng thừa từ Hán Việt, từ thuần Việt:
Ngày giỗ là từ thuần Việt đơn giản gọi là “ngày giỗ”, còn theo Hán Việt là “chính kị” 正忌 hay “kị nhật” 忌日 đừng gọi là “ngày kị nhật”, bởi “nhật” là “ngày” rồi!
“Tự”   đã là “Chùa” do vậy nói “Liên hoa tự” 莲华寺, “Tràng Linh tự” 場靈寺 hay “Chùa Liên Hoa”, “Chùa Tràng Linh” là đủ, đừng nói  “Chùa Liên Hoa tự”, “Chùa Tràng Linh tự”!
“Đường” là cái nhà để làm lễ, nên nói “Từ đường” 祠堂 (Hán Việt) hay “Nhà tổ” ( 茄祖,  thuần Việt) là được chứ nói “Nhà Từ đường” chẳng theo quy định nào. 
7. Không phân biệt được chữ Nôm và chữ Hán:
Gia phả, Long văn xưa soạn bằng chữ Hán nhưng tên người lại là tên Nôm, viết bằng chữ Nôm và thường đặt tên xấu cho dễ nuôi. Rất nhiều chữ Nôm mượn hai nửa của 2 chữ Hán hoặc có khi mượn nguyên cả chữ Hán. Cái khó là chỗ đó thường nữ hay con nhà ít học hay đặt tên Nôm. Ví dụ đặt con là “Hoe” ý là cuối bét, con lại đen nên gọi là “Hoe Đẻn” rồi nhưng khi chép phả lại mượn chữ  ghi âm “hoe”, chữ ghi âm “đẻn”, đời sau dịch thành “Hòe Điển”, không ăn nhập gì với gia cảnh!. Hoặc như Đệ Nhất Tổ tỉ họ nhà tôi là Lương Thị Còi. Chữ “Còi” dứt khoát phải viết bằng chữ Nôm, nhưng Nôm thì lại mượn nửa chữ “côi” để ghi âm và nửa từ “phiêu” ghi nghĩa (nhẹ nhàng) mà được chữ  񠐜, dễ nhầm thành chữ “Ngỗi” .
8. Sai chính tả chữ Quốc ngữ khi dịch:
Vùng châu thổ sông Hồng phổ biến không phân biệt được n/l, r/d/gi, s/x, ch/tr, g/gh, ng/ngh...nên nhiều khi tên một người viết ở Gia phả, đề trong bia mộ, khấn ở Long văn lại tưởng 2,3 người.
Ví dụ: Thượng Tổ tỷ họ tôi Gia phả ngành Hai chép là Nguyễn Thị Lã, bản Gia phả khác chép Nguyễn Thị Nữ. Đây chắc không phải nhầm chữ ra chữ được! Theo tôi, chắc xưa tiền nhân chép tên Cụ bằng chữ mà chữ này có âm “Lữ” nhưng quen đọc là “Lã” nên sau này người chép theo âm quen đọc “Lã”, người chép theo phiên thiết là “Lữ” nhưng chuyển sang quốc ngữ viết ngọng thành ra “Nữ”!
 Hay như bác họ tôi vốn gốc chài lưới nên tên là (với chữ “ngư”   là cá chỉ nghĩa, chữ “nghiêu”   gợi âm) phải đọc và viết là “Nghéo” thế mà các anh chị tôi lập bia mộ ghi là “Ngéo”! Ngoài ra khi đi viếng mộ tôi còn thấy khá nhiều ngôi mộ khắc tên các cụ bằng chữ quốc ngữ hẳn hoi mà đó ai đọc được. Ví dụ: “Qoàng” (chắc là Quàng),  “Bắu” (Báu?)…
Hoặc như Cụ cố tôi là Lương Đức Trinh 梁德禎 là con út của bà Hai, thường được gọi là “Trinh bé”, để phân biệt với “Chinh lớn” tức cụ Giáo Chinh là con bà cả và ông Nội tôi là Lương Đức Trính 梁德楨 nhưng rất nhiều lần nhờ người viết sớ toàn chép là “Chinh” và “Chính”, đành bỏ không dùng được. Bởi họ nhà tôi có cụ Chinh , khiếm tự 欠嗣 và không có ai là “Chính” cả.
Đặc biệt các cụ nữ khi đã quy ở chùa thường đặt hiệu có chữ “Diệu” 耀 (Rọi sáng, sáng soi, sáng ở chỗ này soi tới chỗ kia; đạt được Vẻ vang, rực rỡ), ví như  Đệ Nhất Tổ tỷ trong Gia phả chép 梁氏諱 񠐜号耀勤  đúng ra phải hiểu là Cụ họ Lương tên là Còi, hiệu Diệu Cần nhưng lại ghi thành Riệu Cần chẳng có nghĩa gì[1]! Tương tự như vậy, trong Hán văn thường có chữ dùng khi nói hết câu hay mở đầu câu; chữ này có phiên thiết là 羊者切  (dương giả thiết) nên phải đọc là “dã” nhưng nhiều người chép lầm thành “rã”. Khi đó nếu mất bản chữ Hán chỉ dựa vào bản phiên âm thì không ai hiểu và dịch được!
Mặt khác, tiếng Việt có 6 thanh điệu, khi sao chép do viết láu, dễ nhầm. Ngày xưa, con trai hai mươi tuổi 二十岁 làm lễ đội mũ gọi là “nhược quán” 弱冠, chưa đến hai mươi tuổi gọi là “vị quán” 未冠. Không hiểu có người chép lại bản đã phiên âm rồi dịch thành “20 quan” (tiền)!
Cách tốt nhất hiện nay nên dùng chữ quốc ngữ với âm thuần Việt. Trường hợp buộc phải dùng Hán tự mà nếu không có người thực học, am hiểu cần dựa vào Tự điển 字典 (sách giải nghĩa của chữ đơn, có thể chỉ là thành phần của từ) và Từ điển 词典 (sách sắp xếp thành các từ vị chuẩn theo một trình tự, thường là các chữ ghép lại thành từ). Ví như các cuốn Từ điển Hán Việt 漢越辭典 của Đào Duy Anh, Hán Việt tự điển 典字越漢 của Thiều Chửu.
Cuối năm 2009, khi chỉnh trang phần mộ của gia đình tôi đã dùng những chữ, câu có trong sách, sử dụng Computer gõ, chọn Font chữ Hán ưng ý rồi trình bầy lại bằng các phần mềm thích hợp sau đó in, phóng ra theo cỡ đã định. Cuối cùng mới đưa cho thợ khắc đá. Phần phiên âm, dịch nghĩa đều chép lại trong Gia phả để con cháu sau này hiểu được (dù không rành Hán tự). Làm như vậy chính xác lại đẹp.
-Tháng Chạp Nhâm Thìn-


[1] Trong hệ thống âm hán Việt không có phụ âm đầu “r”!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!