[XEM GIA PHẢ][ PHẢ KÝ ][ THỦY TỔ ][PHẢ ĐỒ ][ TỘC ƯỚC ][ HƯƠNG HỎA ][TƯỞNG NIỆM][ THÔNG BÁO GIỖ]

Kính lạy các đấng Thần linh, Tiên Tổ và các bậc phụ thờ theo Tiên Tổ :
Phù hộ, Ban phúc, Chăm sóc cho GIA TỘC ngày càng phát triển; luôn An khang Thịnh vượng, Phúc khánh lâu bền
và Phù hộ, Chỉ giáo cho hậu sinh hoàn thành BỔN PHẬN cũng như TÂM NGUYỆN của mình
-*-
Trong nhiều bài viết có chứa các ký tự Tượng hình (chữ Hán, chữ Nôm).
Nếu không được hỗ trợ với Font đủ, bạn có thể sẽ chỉ nhìn thấy các ký hiệu lạ.


24 tháng 12 2012

Nhắc lại về LỆ TỤC VÒNG ĐỜI

Do ảnh hưởng của văn hóa Hoa Hạ, lại kết hợp với văn hóa bản địa nặng tính chất làng xã của nền văn minh lúa nước nên người Việt có khá nhiều tục lệ. Trong số những lệ tục đó, theo thời gian và do thời cuộc, có cái nay đã đi vào quên lãng, không còn phù hợp. Ngược lại những lệ đã trở thnahf “Thuần phong mỹ tục” thì vẫn được duy trì cho phù hợp hơn. Đáng tiếc, do điều kiện kinh tế phát triển nhưng một số mặt VHXH lại có biểu hiện không theo kịp nên xuất hiện nhiều lệ mới, phục hồi làm biến dạng nhiều tục cũ.
Lược thuật lại đầu việc vài lệ tục thường gặp trong Cưới xin, Sinh dưỡng, Chúc Thọ, Tang ma, Thờ cúng (nội dung chi tiết quá dài, đã từng bàn nhiều lần) để nhớ, tiện thực hiện.
1. Lệ tục trong cưới xin:
Hôn nhân là sự cam kết đồng ý giữa hai cá nhân Nam và Nữ về các khía cạnh luật pháp, xã hội và tôn giáo; nó là nền tảng của gia đình trong hầu hết các dạng hình xã hội hậu nguyên thủy. Theo truyền thống, muốn thành đôi lứa phải trải qua Lục lễ danh nghi (H: 六禮名儀, A: The six ceremony of marriage, P: Les six cérémonies de mariage), gồm:  Nạp thái 納釆, Vấn danh 問名, Nạp cát 納吉, Nạp trưng 納徵, Thỉnh kỳ 請期, Thân nghinh 親迎. Ngày nay, tục lệ cưới xin đã có phần đơn giản, nhanh gọn và tiết kiệm hơn nhiều, nhưng không vì thế mà mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc. Do vậy một số Lễ vẫn phải theo, là:
1.1. Lễ chạm ngõ (xem mặt, dạm ngõ) : là một lễ nhằm chính thức hóa quan hệ hôn nhân của hai gia đình, thông qua đó hai gia đình có thể biết rõ về nhau hơn (về gia cảnh, gia phong), từ đó dẫn tới quyết định tiếp tục hay không quan hệ hôn nhân của hai gia đình.
1.2. Lễ ăn hỏi : Còn được gọi là lễ đính hôn là một thông báo chính thức về sự kết giao của hai gia đình và hai họ. Khi đó cô gái được hỏi đã chính thức trở thành vợ chưa cưới của chàng trai đi hỏitrên thực tế, nó đã bao hàm cả lễ dẫn cưới. Nên trong các nghi thức ở lễ ăn hỏi ngày nay phải có cả những nghi thức của lễ dẫn cưới. Chú ý số mâm quả (hoặc tráp) thường là số lẻ, 3, 5, 7, 9 hoặc 11 vẫn chỉ là 1 lễ (Lễ Ăn hỏi) không phải đây là số lễ như có người hiểu. Trong các tráp này có trầu, cau; bánh cốm; mứt sen; rượu; chè; thuốc lá; bánh phu thê (bánh xu xê), bánh đậu xanh, lợn sữa quay, tiền dẫn cưới. Riêng tiền dẫn cưới phải để trong 3 phong bì (1 đặt tại nhà cô dâu, 1 bên gia đường họ Nội, 1 bên Gia đường họ Ngoại của cô dâu) và mỗi phong bì đặt  số lẻ đẹp tiền ( như 999.000 hay 1.599.000 hoặc 3.333,000 đ)v.v.
Nhận lễ và yết cáo Tổ tiên xong, nhà gái phải trả lễ một phần cho nhà trai (riêng cau phải xé không cắt và tráp đựng lễ không đạy nắp). Sau đó  nhà gái thường làm cơm thết đãi rồi chia trầu biếu quà cho họ hàng lân xóm.
1.3. Lễ cưới là đỉnh điểm của quy trình tiến tới hôn nhân, là hình thức liên hoan, báo hỉ mừng cô dâu, chú rể, mừng hai gia đình, công bố sự thành hôn của đôi trai gái. Nó bao gồm: Lễ Vu quy do nhà gái mở tiệc mời thông báo việc con gái đi lấy chồng với họ hàng và bạn bè; Lễ xin dâu do nhà trai thực hiện tại nhà giá; Lễ rước dâu là việc nhà gái đưa, nhà trai đón dâu đi từ nhà gái về nhà trai; Lễ Thành hôn: được nhà trai tổ chức tại Hôn trường bên nhà Trai, có đoàn nhà gái sang dự.
1.4. Lễ lại mặt: là Nhị hỉ hoặc Tứ hỉ, sau ngày cưới đôi vợ chồng trẻ về bên nhà bố mẹ vợ làm lễ gia tiên, thăm hỏi và biếu quà cho họ hàng ri dự bữa ăn với gia đình.
1.5. Kỷ niệm ngày cưới: thực hiện dịp 25 năm (đám cưới Đồng), 30 năm (đám cưới Bạc), 40 năm (đám cưới Vàng), 50 năm (đám cưới Kim cương) sau ngày cưới. Đây là lệ không bắt buộc
2. Lệ tục sinh dưỡng:
Người Á Đông vốn rất coi trọng việc có con nối dõi tông đường nên coi một người mà  Vô hậu kế đại”  (H:無後繼代,A: Without posterity, P: Sans postérité) là mắc tội lớn với tổ tiên. Do vậy người Việt rất chú trọng những tục lệ khi trong gia đình có người nằm ổ.
2.1. Xin quần áo cũ cho trẻ sơ sinh: Khi chuẩn bị sinh, bố mẹ trẻ xem trong bà con, họ hàng, làng xóm nhà ai có con cái bụ bẫm, hay ăn chóng lớn, ít khóc ít quấy, ao ước sắp tới con mình đẻ ra cũng được như thế thì xin một cái áo, hay cái quần, cái tã cũ của đứa bé về sửa sang lại để dùng cho con mình để lấy “khước”.
2.2. Yết cáo tổ tiên: Theo lệ cũ chỉ sau khi đối chiếu gia phả, kiêng kị các trường hợp phạm huý (đặt tên trùng với tên huý của tổ tiên và thân nhân gần gũi nhất, kể cả nội ngoại) mới chính thức đặt tên huý cho trẻ sơ sinh, yết cáo tổ tiên và xin vào sổ họ. Lễ này thường đơn giản: nén hương, cơi trầu, chén rượu, đĩa hoa quả…sao cho gia đình nghèo nhất trong họ cũng không gặp phải điều gì phiền phức.
2.3. Cúng hạn: Tổ chức vào thời điểm: khi đứa trẻ mới sinh được 3 ngày (tẩy tam 洗三, ngày đầy cữ), 1 tháng (ngày đầy tháng), 100 ngày (“bách nhật百日, ngày đầy tuổi tôi) và 1 năm (ngày thôi nôi). Đồ lễ tùy nơi, tùy gia cảnh nhưng chú ý cần 12 phần bằng nhau cho 12 bà mụ và 1 phần lớn hơn cho bà Chúa thai.
2.4. Sinh nhật: là lệ mới xuất hiện thành trào lưu do ảnh hưởng của văn minh phương Tây, thực hiện theo Dương lịch và chỉ làm khi chưa đến tuổi 50. Riêng năm 36 tuổi, 49 tuổi thì có lễ sinh nhật gọi là “Môn hạm tử” (門檻子, ngạch cửa)
3. Lệ Mừng Thọ:
3.1. Ý nghĩa nhân văn: Khi còn nhỏ và lúc trẻ đến ngày sinh ta tổ chức Sinh nhật nhưng từ năm mươi tuổi trở đi không làm sinh nhật nữa, mà gọi là “Mừng Thọ” 可稱 (Tố Thọ 做壽). Ngày ấy, có mời thân bằng quyến thuộc đến dự. Sau đó, cứ mười năm tổ chức mừng thọ một lần, gọi là “Đại sinh nhật” (sinh nhật lớn 大生日). Người Việt sẵn vốn nặng lòng với đạo hiếu 孝道 nên rất tôn trọng người cao tuổi, (“Kính lão đắc thọ”, “kính già già để tuổi cho”) và việc chúc thọ là tấm lòng hiếu thảo của con cháu đối với Ông Bà Cha Mẹ.
3.2. Cấp độ mừng Thọ Chữ “THỌ” phân ra nhiều bậc, để biết mức độ thọ nhiều tuổi, ít tuổi v.v… nhưng nhiều người chưa rõ nên dễ dùng lầm. Do vậy cần hiểu để sử dụng cho đúng ngữ cảnh. Ví dụ:
- “Khao lão” 犒老 là lễ tổ chức lần đầu khi vào lão, thường là vào dịp 50 tuổi, gọi là “Noãn thọ” (暖壽, thọ ấm áp) hay “Bán bách thiêm thọ” (半百添壽, thọ nửa trăm).
- “Chúc Thọ” 祝壽 là lễ mừng người thọ từ 60 tuổi trở lên.
- “Trung Thọ” 中壽 là lễ mừng người thọ từ 70 tuổi trở lên.
- “Thượng Thọ” 上壽 là lễ mừng người thọ từ 80 tuổi trở lên.
- “Đại Thọ” 大壽 là lễ mừng người thọ từ 90 tuổi trở lên, gọi là “Ráng”.
- “Lão thiêm thọ” (thọ đỏ) 絳老添壽. Gọi tắt là "Lão thọ".
100 tuổi, xưng là “Kỳ Di” 期頤 (thuật ngữ riêng). Ngoài ra:
- “Vạn Thọ” 万壽, “Trường Thọ” 長壽 chỉ những bậc đã sống từ trăm tuổi trở lên.
- “Phúc Thọ” 福壽 là chỉ cho những bậc có phước nhiều, làm phúc nhiều trong cuộc sống, 考終命: Lão chung mệnh (Vui hết tuổi trời).
- “Khánh Tuế” 庆岁 hoặc “Khánh Thọ” 庆壽 để mừng cho các bậc đã thượng thọ hay đại thọ được tổ chức long trọng, tôn kính.
- “Đạo Thọ” 導壽 là chỉ những bậc tu hành nhiều năm, người có nhiều công đức hoằng dương Chính Pháp, phụng sự chúng sinh v.v…
3.3. Tổ chức Lễ mừng thọ: Có nơi lấy năm có số tuổi tròn chục như 50, 60, 70 tuổi các cụ để mừng thọ, nhưng lại có nơi chọn những năm 49, 59, 69 tuổi để mừng thọ, vì họ cho rằng, số chín là số “lớn nhất” trong dãy số, mang đến nhiều điều tốt lành hơn. Tập quán ấy gọi là “cửu bất khánh thập” (九不慶十, mừng chín không mừng mười). Dù mốc tuổi nào thì thường nhằm ngày xuân (dịp Tết Nguyên đán). Đây là dịp con cháu báo hiếu ông bà, cha mẹ. Lễ tổ chức to hay nhỏ đều thể hiện được niềm vui của gia đình vì có người sống thọ. Chú ý: khi dâng trướng mừng không viết “thọ 70 (75, 80…) tuổi” như viếng đám hiếu mà ghi là “Thọ tuổi 70 (75, 80….)”.
Khi các cụ bảy, tám mươi tuổi được mời cùng con cháu và bà con đến “NHÀ VĂN HÓA” thôn họp mặt. Hội Bảo thọ và các đoàn thể chúc mừng, trao Thư của Hội người cao tuổi, chụp ảnh, tặng quà lưu niệm. Tại gia đình, con cháu làm lễ cáo gia tiên sau đó thực hiện việc chúc thọ. Con cháu tặng hoa, bà con biếu quà thường là “phong bì”. Việc dâng bức trướng câu đối tùy nhà nhưng phải hợp gia cảnh. Tôi thường tự soạn và thiết kế lấy chứ nhiều nhà mua về thấy nó khách sáo và đôi khi phản nghĩa nữa!
Nhiều quan chức dịp mừng thọ cha mẹ trở thành cái cớ để đàn em trả ơn hay hối lộ. Có gia đình đua nhau, phải bổ bán kinh phí lo các cỗ mặn sau tiền mừng không đủ sinh ra cãi nhau...Những cái đó làm mất dần ý nghĩa tốt đẹp, nhân văn của việc mừng thọ.
4. Lệ tục trong tang ma:
Giữa người sống và người chết là xa cách vĩnh viễn: Sinh ly tử biệt (H: 生離死別,A: Separation in life and separation in death, P: Séparation du vivant et séparation de la mort). Do vậy việc tổ chức tiễn đưa người vừa chết rất được chú trọng gọi là Cư tang 居喪 hay Tang lễ (H: 喪禮, A: Funeral rites, P: Rites funèbres), tức nghi thức làm một đám tang. Trong đó cần chú ý :
4.1. Khi người thân hấp hối: gia chủ cần: Dời người sắp mất sang phòng chính tẩm,  Hỏi xem có dặn dò trối trăng gì không, Chuẩn bị mọi thứ để tắm gội khâm liệm, Hạ thi thể xuống đất, nhờ người Xem ngày giờ, báo chính quyền, họ mạc.

4.2. Khi đã tắt thở, thực hiện các lễ:

- Lễ mộc dục 沐浴 khi tắm gội cho người vừa chết thường vừa để sẵn một con dao nhỏ, một vuông vải (khăn), một cái lược, một cái thìa, một ít đất ở ông đồ rau, một nồi nước ngũ vị hương và một nồi nước nóng khác. Lấy vuông vải dấp vào ngũ vị, lau mặt, lau mình cho sạch rồi lấy lược chải tóc lấy sợi vải buộc tóc, lấy khăn khác lau hai tay hai chân, lại lấy dao cắt móng tay móng chân, mặc quần áo cho chỉnh (LLVT mặc quần áo của lực lượng). Móng tay móng chân gói lại trên để trên, dưới để dưới, để vào trong quan tài; dao, lược thìa và nước đem đi chôn; rước thi thể đặt lên giường.
- Chờ nhập quan: Ðắp chăn hoặc chiếu, buông màn, đặt một chiêc ghế con phía trên đầu, trên đó đặt một bát cơm úp, một quả trứng, dựng một đôi đũa trên bát cơm và thắp hương. Chuẩn bị ảnh, khung đế gắn ảnh người quá cố (thay cho Hồn bạch 魂帛 xưa), vải, xô đủ xé khăn tang, mua giấy bản, chè khô hoặc bỏng để trị quan. Thành lập Ban Lễ tang, xác lập tang chủ (trưởng nam), chủ phụ (vợ người chết hay vợ tang chủ); tướng lễ, hộ tang (chỉ huy, quán xuyến, sắp xếp việc thực hiện lễ tang), tư thử (đăng kí, biên chép khách đến viếng), tư hóa (theo dõi việc chi tiêu).  Báo tang, tức Cáo phó (H: 告訃,A: Death notice, P: Avis de funérailles): trình báo cho thôn, xã, thông báo bà con, họ mạc, con cháu xa gần. Thống nhất thủ tục và Danh sách con cháu.
- Chuẩn bị nhập quan: Trải giấy bản kín 2 lượt, rắc bỏng hay trà khô vào quan tài trên lớp này xưa còn đặt tấm ván Thất tinh. Xong làm Lễ phạn hàm 飯含: dùng thìa xúc gạo đã xát cho sạch và 3 đồng tiền mài cho sáng vào miệng tránh tà ma ác quỷ đến cướp đoạt, để tiễn vong hồn đi đường xa được siêu thoát và no đủ khi sang thế giới bên kia. Ngoài ra, phía trong áo quan thường có lót lá chuối, giấy bản, chè búp, bỏng nếp hoặc khăn vóc áo nhiễu...Xong việc Thầy cúng cầm một nắm hương đang cháy đọc chú phù trên con dao rồi chém khẽ 3 nhát vào trong quan tài sau đó ném nắm hương vào trong quan tài (chú ý hỏa hoạn) nhằm xua đuổi thần sùng, quỷ tinh rời áo quan. Lúc đó tang chủ ném một nắm gạo, muối ra đường để tống tiến tà ma, yêu quỷ.
- Lễ khâm liệm, ( , ) :  Các con vào, con trai bên trái, con gái bên phải thực hiện việc quỳ, bái, đứng, đi theo hiệu lệnh của người chấp sự. Sau đó các con cháu tránh ra hai bên, người giúp việc cởi bỏ dải buộc hàm, phủ vuông vải lên mặt, đi găng, đi tất cho người mất rồi đặt thi thể vào vải mà liệm lại. Quá trình Liệm không được để nước mắt con cháu rỏ xuống di hài để tránh không mát, con cháu khó làm ăn.
- Lễ Nhập quan: được thực hiện vào ngày giờ tránh phạm tuổi người chết. Khi nhập quan các con theo thứ tự quỳ 2 bên (trai phải, gái trái). Những người giúp việc sẽ quay và đều cầm tạ quan nâng lên để đưa người vào cho êm ái, đặt cho chính giữa quan tài, nếu có hở chỗ nào cần lấy áo cũ của người vừa mất bổ khuyết cho đầy đủ, rồi gấp dưới lên đầu trước, bên trái gấp trước, bên phải gấp sau, trên đầu gấp sau cùng, sơn nẹp đóng lại. Chú ý: Những quần áo của người đang sống, hoặc quần áo mà người đang sống có mặc chung thì kiêng không được bỏ vào áo quan.
Mọi việc xong thì sơn gắn quan tài cho kỹ càng, con cháu sụp lạy rồi khiêng quan tài đặt chính giữa gian giữa, hoặc nhà còn người tôn hơn thì đặt sang gian cạnh. Việc định hướng còn nhiều ý kiến khác nhau, theo tôi nên đặt đầu quay ra là hợp vì khi lễ sẽ vái đầu chứ không vái chân. Trên nắp quan tài đặt bát com lồng đơm chặt (tượng trưng cho trái đất (-) và cũng thể hiện nền nông nghiệp lúa nước, thức ăn nuôi sống con người), 1 quả trứng luộc (tượng trưng cho lưỡng nghi bởi có cả lòng đỏ và trắng, thực ra là hút độc, khí lạnh từ thi hài ra rất tốt), 2 chiếc đũa đầu trên chẻ bông (tượng trưng cho mây trời+) cắm vào bát cơm (nối thông- và + chỉ sự sinh sôi nẩy nở từ cái chết), thắp 7 (nam) hoặc 9 (nữ) ngọn nến và đặt một khoanh thân chuối để cắm hương (đại hàn dùng âm tiễn âm).
4.3. Khi chưa đưa quan tài ra khỏi nhà: thực hiện các công việc:
- Lễ thiết linh : đặt bàn thờ tang phía trước quan tài có ngăn cách một y môn. Ngoài ảnh trên bàn thờ tang cũng có mâm ngũ quả, bát hương (khoanh thân cây chuối), 2 ngọn nến, đủ rộng phía trước để khác đặt lễ viếng (trường hợp bàn vong nhỏ nên để một bàn khác thấp hơn để đặt lễ viếng). Người ta còn buộc 2 cây chuối 2 bên để dùng âm trị âm. Dưới gầm bàn vong nên đặt một chậu nước để khi rút chân hương dúi tắt tránh hỏa hoạn.
- Lễ thành phục 成服: do ông thầy chủ lễ, sau đó con cháu mặc đồ tang theo Ngũ phục để cúng tế và đáp lễ khi khách đến viếng. Trước khi thành phục, nếu có khách đến thì người chủ tang chưa ra tiếp mà người hộ tang thay mặt tiếp khách và thông cảm với khách.
- Thổi Kèn giải: phường kèn (nay gọi là Đội Nhạc hiếu) do gia chủ thuê túc trực bên linh cữu thổi kèn đánh trống khi làm các lễ hay khi có khách đến viếng hoặc khóc thay những những người phải chịu tang chưa về hoặc không thể về kịp.
- Chuyển cữu: Thường 12 giờ đêm dâng trầu rượu làm lễ khấn gia tiên rồi con cháu trong nhà khiêng quan tài nhấc lên xoay một vòng đặt lại như cũ
  -Triêu tịch diện 朝夕面 : Buổi sáng dậy bưng khăn lược vào linh sàng, quỳ khóc ba tiếng rồi quấn màn lên cáo từ rồi vắt màn, dọn chăn gối, chiều tối lại đắp chăn thả chiếu, màn xuống. Thờ như lúc sống, chỉ lạy hai lạy (chỉ sau khi an táng, làm lễ thành phục xong mới lạy bốn lạy theo nghi lễ người chết).
 - “Lễ chúc thực 燭食: Các buổi tối trước khi chưa chôn, có  Trồng bó đuốc trước sân: phường bát âm tấu nhạc, con cháu thay nhau túc trực bên linh cữu, trong nhà ngoài sân đèn đuốc sáng trưng, có thể có cảnh chèo đò, các vãi tụng kinh. Vào gi ăn thường ngày các con thay nhau mời cưom, dâng trà rượu
- Viếng phúng: Khi thân bằng cố hữu đến phúng điếu, người chủ tang và người chủ phụ đứng cạnh linh toạ và ngoảnh mặt về phía khách, hễ khách lạy hai lạy thì chủ lễ tạ lại một lạy. Khách vái cha mẹ mình ba vái thì vái tạ một vái. Trách nhiệm tiếp trầu, nước, cỗ bàn thuộc về người hộ tang.
Nếu có người con trai nào đi vắng chưa kịp về thì để mũ, khăn xô và gậy cạnh hương án.
- Yết cáo tổ tiên: Trước ngày an táng phần lớn các gia đình rước hồn bạch đến đặt phía trước bàn thờ, để ở dưới, không được đưa lên bàn thờ tổ. Nội dung: Báo cáo với gia tiên có thân phụ hoặc thân mẫu về chầu tổ. Xong lại rước hồn bạch về nhà mình, đặt lại trên linh toạ.
- Truy điệu : Trước khi di quan, ban tang lễ tiến hành Truy điệu người quá cố bao gồm việc đọc Điếu văn, tổng họp số đoàn, cá nhân đến viếng và đại diện gia đình hiếu chủ phát biểu cảm ơn, mời chào. Điếu văn 文弔 là văn tế được đọc trước quan tài nhắc tiểu sử và tỏ lòng thương tiếc người chết.
4.4. Phát dẫn:
Đúng giờ đã chọn, dưới sự chỉ huy của chấp sự: thực hiện việc khiêng quan tài ra khỏi cửa đến chỗ đặt xe tang (xưa gọi là đại dư), từ đây trở đi người chủ tang thực hiện việc “cha đưa, mẹ đón”, nghĩa là đưa cha thì đi sau linh cữu, đưa mẹ thì đi giật lùi trước linh cữu. Việc lăn đường (dâu trưởng và con gái), con cái phải đi chân đất xưa rất thịnh, nay còn duy trì tại một số địa phương xét ra chỉ là hình thức. Thứ tự đoàn đưa tang theo nghi thức đã định cốt trang nghiêm và xe tang(người đẩy hoặc trên ô tô) đi êm, nhẹ nhàng, đi chậm, con cháu đi theo linh cữu phải mặc đồ tang và con trai thực hiện việc cha đưa mẹ đón.  Để tránh ma quỷ quấy nhiễu và đánh dấu đường đi cho linh hồn người chết trửo về, thường rắn vàng thôi tiền giấy, nhất là khi qua cầu, nơi ngã 3 ngã 7 song nay thấy rải cả tiền thật là không nên.
Khi người quá cố đã quy thì thực hiện theo nghi lễ Phật giáo có các vãi đi theo đội cầu Bát nhã, cầm phướn vừa đi vừa tụng kinh niệm Phật để linh hồn siêu thóat sang Tây Thiên, hưởng cực lạc. Nhưng một số nơi tục này từ 2007 thấy hơi kéo dài bởi thủ tục chèo đò rất tốn kém.
4.5. Lễ an táng, 安葬:  
Thực hiện theo đúng giờ đã chọn. Trước đó có làm lễ tế thổ thần gồm đèn, hương, vàng, trầu, rượu, lễ mặn và việc chọn vị trí, định hướng do thầy địa lý xem.
Đưa quan tài xuống từ từ bằng 2 sợi chão, định vị theo hướng đã chọn (cắm sẵn 2 cọc làm mốc), tháo gỡ khóa dây, nhặt lấy hương nến, bát cơm, quả trứng rồi lấp đất. Hạ huyệt xong, tất cả người đi đưa đều đi vòng quanh mộ một vòng, mỗi người ném xuống một hòn đất.
Ðắp mộ (hình tháp cụt) xong, mọi người đứng vòng quanh mộ, người hộ tang, người chấp sự tiến hành lễ thành phần. Riêng người theo đạo Phật các vãi sẽ đi xung quanh huyệt tụng kinh cầu siêu cho người chết
Nghi thức chung như trên, nhiều nơi còn có tục riêng như cầu kinh, yểm bùa, nhốt con gà, cài cây lá chứa, dựng cây nêu, đóng cửa mả, đốt hình nhân... rắc vàng khẩu dọc đường, cắm hương ở các mộ xung quanh, mời người qua đường ăn trầu hút thuốc, đãi người đắp mộ...
4.6. Rước vong về:
Sau khi đắp mộ xong bàn vong được đưa về nhà người mất sẽ được thờ tự, có kèn trống đi kèm.
4.7. Bàn thờ người vừa mất:
Được lập riêng ở gian bên cạnh hay tại nhà ngang để tiện việc cúng 3 ngày, cúng cơm, cúng tuần. Trên bàn thờ đặt bát hương, ảnh, lọ hoa, đế nến. Cạnh ban thờ có treo các bức trướng mà khách viếng hôm mất, có điều kiện nên làm đôi câu đối cho hợp cảnh hợp tình, ví dụ: chung cho bàn thờ cha mẹ “Hiếu đạo chưa đền ơn cúc dục, Khuất còn thêm tủi phận làm con” hay: “Người về âm cảnh thân thư thái, Kẻ ở dương gian dạ ngậm ngùi” hoặc câu tôi đang chuẩn bị: “Dâu hiền lên chín tầng, …   tộc lưu huyết lệ, Gái đảm về ba đảo, … gia khổ tâm sầu”.
5. Tục THỜ CÚNG NGƯỜI CHẾT:
5.1. Lễ ba ngày (三虞,lễ tế ngu): 3 ngày sau mất.  
5.2. Lễ cúng cơm 朝夕面: trong vòng 100 ngày
5.3. Cúng tuần 旬祭: thực hiện vào các ngày thứ 7, 14, 21, 28, 35, 42 sau mất
5.4. Lễ chung thất (49 ngày) và tốt khốc (100 ngày) chính là cúng Tuần 7, tuần 8 sau mất  
5.5. Tiểu tường, 小祥: giỗ đầu, cúng Tuần 9 sau mất.
5.6. Đại tường, 大祥 : là giỗ hết, cúng Tuần 10.

5.7. Trừ phục, (đàm tế, 除服) bỏ tang, thực hiện ở tháng thứ 28.

5.8. Cải táng 改葬: Người mất, sau ba năm đoạn tang rồi hoặc một vài năm nữa thì con cái lo việc cải táng. Thường vào dịp cuối năm, trước 23 tháng Chạp vì khi đó thời tiết khô ráo. Sau đó phải tìm ngày, tìm đất, đặt hướng, chọn mầu gạch và tiến hành theo thủ tục chung.

5.9. Kị nhật, 忌日 : hay cát kị thực hiện vào ngày mất (theo âm lịch) từ năm thứ 3 trở đi. Ý nghĩa, đồ lễ, nghi thức đã chép kỹ tại phần cúng giỗ. Thông thường các năm thứ 5, 15, 25.. gọi là giỗ chẵn, năm thứ 10, 20, 30...gọi là giỗ tròn sẽ làm lớn hơn.
Trong các Lễ, công việc trên thì trừ ngày làm lễ An táng và ngày làm lễ Trừ phục, Cải táng cần chọn ngày lành còn Lễ chung thất, Tốt khốc, Tiều tường, Ðại tường, Kị nhật cứ theo đúng ngày mà làm lễ.
5.10. Chăm sóc mộ phần: là một trong những hình thức thờ phụng. Việc này được thực hiện vào dịp trước Tết, trước ngày cúng giỗ và dịp Thanh minh.
Khi mộ bị sụt hay trong gia đình có sự xấu hoặc sẽ chuyển đi xa. Lễ gồm trầu, cau, xôi, chuối, rượu, gà, gạo, muối, vàng, mã. Đồ lễ đặt trước mộ, con cháu khấn vái, chú ý khấn cả Thổ thần nơi đặt mộ (Dẫn hồn sứ giả Ngũ đạo tướng quân, Đương sứ Thổ địa chính thần) và phải viết Sớ.
Chi tiết các lệ tục, nghi thức tiến hành nhiều sách đã viết và đã có trên trang này, trên đây chỉ nhắc lại đầu việc cho nhớ.
- Lương Đức Mến (BS dùng trong Gia tộc)-

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!

Cám ơn bạn đến thăm nhà


Vui nào cũng có lúc dừng,
Chia tay bạn nhé, nhớ đừng quên nhau.
Mượn "Lốc" ta nối nhịp cầu,
Cho xa xích lại, để TRẦU gặp CAU.


Mọi thông tin góp ý, bổ sung, đề nghị sửa trao đổi trực tiếp hay gửi về:
Sáng lập, Thiết kế và Quản trị : LƯƠNG ĐỨC MẾN
(Đời thứ Bẩy dòng Lương Đức gốc Chiến Thắng, An Lão, Hải Phòng - Thế hệ thứ Hai phái Lào Cai)
ĐT: 0913 089 230 - E-mail: luongducmen@gmail.com
SN: 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai

Kính mong quan viên họ và người có Tâm, có Trí chỉ bảo, góp ý thêm về nội dung và cách trình bày
Bạn có thể đăng Nhận xét dưới mỗi bài với "Ẩn danh".
Còn muốn đăng nhận xét có để lại thông tin cá nhân thì cần đăng kí tài khoản tại Gmail .
Chúc bạn luôn Vui vẻ, Hạnh phúc, May mắn và Thành đạt!