Bản đồ hành chính xã Phong Niên và vị trí của nó trên Bản đồ huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai |
Từ tháng 2/1964 gia đình tôi từ thôn Phương Lạp (từ 1966 là thôn Phương Hạ) xã Chiến Thắng,
huyện An Lão, thành phố lên khai hoang ở thôn An Phong, xã Phong Niên, huyện Bảo
Thắng, tỉnh Lào Cai. Phong Niên, đúng như tên gọi 豐年 của nó mà tiền nhân đã chọn là “năm được mùa”[1]
chứ không phải 風蓮 “sen trong
gió” hay 風年 “gió quanh năm” như có người
lầm tưởng. Nhưng cho đến nay các em, con cháu tôi mấy ai đã hiểu ý nghĩa của địa
danh này cũng như địa giới và các thôn hợp thành đã bao lần thay đổi gắn với sự
thăng trầm của lịch sử.
1. Núi rừng đất sáng từ xưa:
Những di chỉ khảo cổ phát hiện năm 1992[2] có niên đại thuộc văn hoá Sơn
Vi (20.000
- 12.000 tCn)[3] đã minh chứng rằng từ buổi ban sơ lịch
sử vùng từ năm 1838 mang tên xã Phong Niên đã có con người khai phá. Nhưng địa danh, địa giới ra
sao, bao gồm những khe, động, sách, trại, bản... nào, thuộc cấp hành chính nào
thì chưa khảo cứu được.
Theo
tư liệu tôi tìm được thì hồi thế kỷ XVIII vùng đất này là động 峒 mang danh Hạo Niên 暠年峒 thuộc châu Thủy
Vĩ 水尾州 phủ Quy Hóa 歸化府. Năm 1838 Minh Mạng (明命,1791- 1841) tiến hành cải cách hành
chính, đổi “trấn” 鎭 thành “tỉnh” 省,chuyển “động” 峒 thành “xã” 社 và cũng dịp này địa
danh Hạo Niên[4] được đổi thành
Phong Niên 豐年[5] đặt thuộc tổng
Gia Phú 嘉富總. Hồi ấy, Gia Phú là một trong 3 tổng của châu Thủy
Vỹ 水尾và có 3 xã (Gia Phú,
Phong Niên, Cam Đường 甘堂) và 2 trại (Phố
An 鋪安, Làng Pha 廊坡) thuộc phủ Quy Hoá 歸化府của tỉnh Hưng Hoá 興化省.
Xã Phong Niên 豐年社 khi đó rất rộng, bao gồm 33 làng, bản, phố, trại: Làng Đo 廊𡳢, Đo Mán 廊𡳢蠻,
Hoả Thiêu 火燒, Cốc Tâm 谷心, Can Hồ Mán 干胡蠻, A Nam 亞南, A Dụng 亞用, Suối Mã 𤂬馬,
Suối Khê 𤂬溪, Đồng Già 同𦓅, Sa Công Hò
Mán 沙公胡蠻, Làng Múc 廊木, Làng Giàng 廊洋, Thác Đông 托東, Thác Đông Mán 托東蠻, Làng Sum 廊森, Làng Sum Mán 廊森蠻, Làng Bái Báo 廊拜報, Làng Thái Niên 廊太年, Làng A Mán 廊安蠻, Tam Hợp Mán 三合蠻, Bắc My Mán 北眉蠻, Làng Cung Mán 廊供蠻, Phố Thái Niên 庫太年, Làng Lượt Mán 廊𦀎蠻,
Suối Mã Mán 𤂬馬蠻, Làng An Mán 廊安蠻, Phố Mới 鋪買, Trại Mới 寨買, Soi Mười 𤐝𨒒, Sơn Mãn 山滿, Giang Đông 江東, Cánh Chín 𦑃𠃩[6].
Khi tỉnh Lào Cai thành lập (12/7/1907) thì Châu Thủy Vĩ chia
thành 2 Châu ở 2 bên sông Hồng. Châu Bảo Thắng 保勝州 bên trái gồm 11 xã, phố trại và 30 làng, bản, phố: Lào Cai 老街, Phố
Mới 鋪買, Trại Mới 寨買, Soi
Mười 𤐝𨒒,
Sơn Mãn 山滿, Giang Đông 江東,
Cánh Chín 𦑃𠃩,
Thái Niên 太年, Phố Lu 富瀘, Xuân Quang 春光,
Phong Niên 豐年. Địa bàn
xã Phong Niên khi đó gần như chỉ gồm các thôn bản của Phong Niên, Phong Hải
ngày nay bởi đã hình thành các xã mới và không còn lệ vào tổng Gia Phú (thuộc châu Thuỷ Vỹ 水尾 mới bên hữu ngạn).
Khi Pháp tái chiếm
toàn bộ Lào Cai (2/1948), Phong Niên
trở thành khu du kích có các tổ chức vũ trang hoạt động mạnh mẽ, nằm cách trung
tâm huyện lỵ 18 km, kéo dài từ Km 17 (Ải
Dõng) đến Km 38 (Bắc Ngầm) dọc 2
bên QL4[7]. Sau khi huyện uỷ Bảo Thắng được thành lập
(15/10/1948) huyện uỷ đã phân công
Nguyễn Đức Thắng sau là Nguyễn Tất phụ trách địa bàn Phong Niên và nơi đây từng
là nơi dừng chân của các cơ quan tỉnh, huyện khi bị tấn công mạnh (12/1949), là địa bàn hoạt động của Đại đội
Thăng Bình (C670). Trong Chiến dịch
Lao Hà (01/3-20/4/1949) một Tiểu đoàn
của Trung đoàn 165 do Sơn Tùng chỉ huy lấy Phong Niên làm bàn đạp tiến vào bao
vây Tx Lào Cai. Sau đó, ngày 10/7/1949 trên đường 4, tại địa phận Cốc Sâm, bộ đội
C946 đã phục kích diệt 4 lính Pháp, 2 lính nguỵ. Từ đó hoạt động võ trang ở
Phong Niên phát triển mạnh, phân tán lực lượng địch. Khu căn cứ này đứng vững
vàng cả sau cả trận càn khốc liệt 7,8/1950 và cùng cả tỉnh phối hợp với bộ đội
chủ lực giải phóng hoàn toàn Lào Cai trong đợt hai Chiến dịch Lê Hồng Phong (9-11/1950).
Giai đoạn
1951-1954, Phong Niên đã góp nhiều công sức trong các cuộc tiễu phỉ, truy bắt
biệt kích nhẩy dù. Đặc biệt trận đánh tan tốp 93 tên phỉ từ Mường Khương, Bắc
Hà tràn xuống ngày 09/4/1951 hay làm hạn chế hoạt động của 4 tên biệt kích nhẩy
dù xuống Phong Niên ngày 10/01/1954.
Trong những năm tiến hành xây dựng chế độ dân
chủ nhân dân, xây dựng CNXH, Phong Niên là 1 trong 15 xã của huyện Bảo Thắng (Vạn Hoà, Cam Đường, Nam Cường, Tân Tiến, Gia
Phú, Hợp Thành, Lê Lợi, Bình Đẳng, Phú Nhuận, Phong Niên, Thái Niên, Xuân
Quang, Phố Lu, Sơn Hà, Quang Trung) và có những đóng góp đáng kể. Đây là những
năm mà Phong Niên đón người dân Hải Phòng lên khai hoang lập nên những thôn mới
mà địa danh bao gồm thành tố chỉ quê gốc và nơi mới đến. Ví dụ: Vĩnh Phong (Vĩnh Bảo+Phong Niên), Tân Phong (Tân Liên+Phong Niên), An Phong (An Lão+Phong Niên), Vĩnh Hồ (Vĩnh Bảo+Sả Hồ) thành ra xã có 16 thôn bản:
Tiền Phong, Tổng Gia, Ải Dõng, Ải Nam, Cống Hồ, Vĩnh Phong, Vi Quang, Tam Thắng,
Tân Phong, Tân Thắng, Cốc Tủm, Cán Hồ, Làng Cung, Cốc Sâm, An Phong, Vĩnh Hồ.
Trường Cấp 1 (nay là Trường Tiểu học) xã Phong Niên được
lập vào năm 1963-1964 với thầy giáo đầu tiên là thầy Nguyễn Bá Phùng (người Hải Phòng) và Nông Khái Hồ (người địa phương, con cụ Nông Du Trang, người
lập công lớn trong trận đánh Đồn Phố Lu, 05/3/1949[8])
Trong những năm
1960 đồng bào Hải Phòng lên khai hoang ở Phong Niên lập nên những thôn mới mà địa
danh bao gồm thành tố chỉ quê gốc và nơi mới đến. Ví dụ: Vĩnh Phong (Vĩnh Bảo+Phong Niên), Tân Phong (Tân Liên+Phong Niên), An Phong (An Lão+Phong Niên), Vĩnh Hồ (Vĩnh Bảo+Sả Hồ) thành ra xã có 16 thôn bản:
Tiền Phong, Tổng Gia, Ải Dõng, Ải Nam, Cống Hồ, Vĩnh Phong, Vi Quang, Tam Thắng,
Tân Phong, Tân Thắng, Cốc Tủm, Cán Hồ, Làng Cung, Cốc Sâm, An Phong, Vĩnh Hồ.
Trong 2 cuộc Chiến
tranh phá hoại của Đế quốc Mĩ, Phong Niên bị ném bom 1 lần ở thôn Vi Quang và
có máy bay không người lái bay qua nhiều lần để trinh sát và rải truyền đơn (ngày 21/9/1967 truyền đơn về Cách mạng văn
hóa TQ về tình hữu nghị Việt-Trung và cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam xuất
hiện ở khu Cốc Sâm, An Phong). Nhưng vì xa tỉnh, huyện lị nên không có cơ
quan nào sơ tán về đây.
Từ tháng 5/1965 Trung Quốc cử 1 Quân đoàn bộ đội hậu
cần dưới danh nghĩa Công nhân Quốc phòng sang giúp Việt Nam làm đường đóng dọc 2 bên Quốc lộ 4[9] và có những ảnh hưởng nhất định đến bộ mặt
của xã. Chính QGPNDTQ đã từng giúp dân Phong Niên thu mùa khi cơn lũ ập đến[10] và khi rút đi để lại đây 1 Nghĩa trang
bên trái km 35+500 và một số khu lán trại sau trở thành nhà ở của dân, kho, chuồng
trại của An Hồ (hợp nhất An Phong và Vĩnh
Hồ).
Ngày 20/9/1966 Bộ
Nội vụ ra Quyết định số 307/QĐ-NV tách thành 2 xã (Phong Niên và Phong Hải) với ranh giới tại Km 30+600[11], là đường phân thủy giữa lưu vực sông Hồng
và lưu vực sông Chẩy. Khi đó Phong Niên còn 7 thôn, gồm: Tân Phong, Tân Thắng,
Cốc Tủm, Cán Hồ, Làng Cung, Cốc Sâm và An Hồ.
Đây là thời kỳ đồng
bào đồng bào vùng cao Bắc Hà, Mương Khương di cư xuống nhiều nên dân cư ngày một
đông và thêm nhiều thành phần dân tộc mới (HMong,
Phù Lá, Pa Rí). Những năm tháng đó Phong Niên đạt được nhiều thành tích
trên mọi mặt, đã từng được chọn điểm về xây dựng nông thôn và phát triển giáo dục.
Trong bối cảnh đó, Trường Cấp 2 xã Phong Niên được thành lập (9/1969)[12] có đủ 3 lớp 5,6,7 trên cơ sở sáp nhập Trường
Cấp 2 Phong Hải và Cấp 2 Xuân Quang (lập
9/1967). Có thời kỳ Phong Niên góp phần cùng toàn huyện, tỉnh giải quyết vụ
xưng vua 8/1974-4/1975 của Đặng Văn Kẹo kéo theo nhiều người ở ở Mường Khương,
Bảo Thắng, Bắc Hà tham gia, trong đó có Phàn Đắc Phù là ủy viên UBHC
xã Xuân Quang giáp với Phong Niên.
Cuộc chiến
02/1979 diễn ra dọc xã và có điểm rất ác liệt, là xã cuối cùng theo tuyến đường
7 mà PLA tràn qua (ngày 22/02). Khi
đó, đại bộ phận nhân dân sơ tán (người
khai hoang về quê, dân bản địa rút về tuyến sau), số ở lại chủ yếu người
vùng cao, già yếu. LLVT địa phương phối hợp với bộ đội chủ lực đã góp phần tiêu
hao nhiều sinh lực đối phương. Một trong những trận thắng lớn của quân dân Lào
Cai trong cuộc chiến này diễn ra tại Km 31, đầu xã, ngăn không cho đối phương
tiến quá Bắc Ngầm. Sau khi đối phương rút (08/3),
nhân dân trở lại khôi phục sản xuất và không có tranh chấp tài sản, ruộng đất
gay gắt như ở một số nơi. Nhưng có những phức tạp bởi là vùng đệm giữa Phố Lu (“Hồng Công” của phía Bắc Hoàng Liên Sơn) và
vùng biên Mường Khương (nơi diễn ra những
vụ buôn lậu nổi tiếng). Trong thời kỳ khắc phục hậu quả chiến tranh, con đường
chiến lược Hoàng Liên Sơn I (đường Thuận
Hải, tỉnh lộ 154) từ km 36 qua Tân Hồ (Phong
Niên) ngược Cốc Ly (Bắc Hà), lên
Tả Thàng, Cao Sơn (Mường Khương) được
mở ra và khai thông[13] đã tạo ra nhiều cơ hội phát triển về văn
hoá, kinh tế các thôn bản trong vùng. Nhưng cũng làm cho rừng mau cạn kiệt hơn
và có phức tạp mới về ANTT.
Trong thời kì đổi
mới Phong Niên đã có những cố gắng mới, vươn lên. Xã đã có chợ, có trường Tiểu
học, trường THCS; đường liên thôn đã vươn tới khắp thôn bản. Đặc biệt khi những
chính sách xã hội giành cho vùng khó khăn vận hành tốt; khi chợ Cốc Ly đi vào
hoạt động, thuỷ điện Cốc Ly khởi công (22/02/2005)
nhiều cơ hội để Phong Niên phát triển đã xuất lộ. Tình hình văn hóa, xã hội,
kinh tế chính trị được cải thiện. Song so với một số xã bạn thì tốc độ tăng trưởng
kinh tế chậm hơn.
Hiên nay, Phong Niên là xã vùng hai của huyện Bảo Thắng, hiện đang thực hiện
chương trình 135 giai đoạn 2 (giành cho
các thôn đặc biệt khó khăn), nằm cách huyện lỵ 18 Km, phía bắc giáp thị trấn
Phong Hải, phía tây giáp xã Thái Niên, phía tây nam giáp xã Xuân Quang, phía
đông giáp xã Bảo Nhai. Năm 2010:
Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 4.255 ha (chiếm
6,25% tổng diện tích tự nhiên của huyện), trong đó: Diện tích đất
nông nghiệp: 711,84 ha, đất lâm nghiệp 1.025 ha[14], đất chuyên dùng:
78,43 ha, đất ở: 38,71 ha, còn lại là đất chưa sử dụng và đồi núi đá vôi. Với nền vật chất chủ yếu là các loại đá mẹ,
có nguồn gốc từ đá trầm tích và đá biến chất có kết cấu hạt mịn, đá hỗn hợp và
các loại đá vôi…. Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, thì trên phạm vi xã có hai loại
đất chính là đất phù sa sông suối và đất đỏ vàng trên đá sét và biến chất.
Ngoài ra trên địa bàn xã còn có đất mùn đỏ nâu và đất dốc tụ trên núi biến đổi
do trồng lúa. Nhìn chung đất đai của xã khá đa dạng thích hợp trồng nhiều loại
cây nông, lâm nghiệp khác nhau. Những loại đất này đều là đối tượng sản xuất
chính và đều được khai thác trong sản xuất nông - lâm nghiệp. Bên cạnh những dải núi thấp, địa hình
vùng trũng thấp và đồi bát úp khá thuận lợi cho phát triển nông - lâm nghiệp và
dịch vụ, xây dựng cơ sở hạ tầng, bố trí dân cư tập trung còn có những dãy núi
đã, chia cắt địa hình; nhiều dốc, khe, suối nhỏ nên canh tác gặp nhiều khó
khăn.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều,
chịu ảnh hưởng trực tiếp khí hậu gió mùa, một năm có 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ
tháng 4 đến tháng 9, mùa khô từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Mùa mưa: Thời tiết
nóng ẩm, lượng mưa lớn chiếm 80% lượng mưa cả năm, trong đó tháng 6,7 và 8 có
lượng mưa lớn nhất (đến trên 300 mm/tháng).
Mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, có nhiệt độ trung bình từ
22-23°C; tháng nóng nhất là tháng 7, nhiệt độ trung bình 30° - 32°C. Tháng lạnh
nhất là tháng 1 có nhiệt độ trung bình từ 14° -15°C. Nhìn chung điều kiện khí hậu
của xã tương đối thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp đa dạng, phong phú.
Mùa đông với khí hậu khô, lạnh làm cho vụ đông trở thành vụ chính có thể trồng
được nhiều loại cây rau ngắn ngày có giá trị kinh tế.
Cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông lâm nghiệp. Trong đó sản
xuất nông nghiệp là chủ yếu, thu nhập chính của người dân là cây lúa, ngô, mía,
một số hoa màu và cây ăn quả trong đó 9 thôn vùng cao, ruộng nước ít, nguồn thu
chính của bà con là từ trồng ngô trên sườn đồi, núi đá[15]. Nhưng do ngành nghề chưa
phát triển mạnh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế cây trồng, vật nuôi
chưa tích cực nên chuyển
biến về kinh tế còn chậm, số
hộ sản xuất kinh doanh giỏi chưa nhiều, chưa có doanh nhân đủ mạnh là người địa
phương hay nơi khác đến mở mang kinh doanh, đầu tư xây dựng trên địa bàn, còn
khoảng 20% hộ nghèo.
Về hành chính: có 22 thôn bản (02 thôn chuyển từ Xuân Quang về tháng 6 năm 2007), có thôn mới do
dân khai hoang lên (độc lập hay xen kẽ)
lập ra như Tân Phong, An Phong, Vĩnh Hồ[16]; có bản người Mông từ Bắc Hà xuống lập
nên như Phìn Giàng (坪羊, Bằng Dương tức
bãi đất trên cao); có bản
do người Tầy, người Dao lập từ trước như: Cốc Tủm 谷心, Cốc
Sâm 谷森, Làng Có 廊崮, Cán
Hồ 干胡, Làng Cung 廊供, Sả
Hồ 下河.
Về dân
cư, xã có 1.832 hộ với tổng dân số 7.546 khẩu, quy mô hộ là 4,7 người/hộ, mật độ dân số bình quân 131 người/km2, gồm 10 dân tộc. Trong đó 6 thôn chỉ có một dân tộc sinh sống, như:
thôn Cán Hồ là dân tộc Dao Tuyển, các thôn Phìn Giàng, Tân Hồ, 3 Làng Có là dân
tộc Mông. Dân trong xã đông nhất là người Kinh (42,51%)
lên trong những năm 1960, 1970 sống ở vùng thấp, ven đường; còn người bản
địa là Tầy (chiếm 3,55%), Nùng (10,07%), Dao (12,07%). Các cư dân khác, như Mông (30,18%), Phù Lá (1,29%), ít nhất là Pa Rí (0,06%)
từ Bắc Hà, Mường Khương di đến trong Thế kỉ XX.
Về đường
giao thông: Quốc lộ 70 từ
Đoan Hùng (Phú Thọ) qua Yên Bái lên
ngã ba Bản Phiệt (Lào Cai) chạy qua
chia đôi dọc xã với chiều dài là 7km, tỉnh lộ 154 nối từ ngã ba km36 lên dọc
các thôn vùng cao của Phong Niên sang Cốc Ly được nâng cấp nên xã có điều kiện
giao lưu phát triển kinh tế với bên ngoài. Hệ thống đường ngang liên thôn nối
hay xuất phát từ 2 trục này, Thủy điện Cốc Ly hoạt động cùng tuyến thăm quan dọc
sông Chảy tạo cho Phong Niên hướng phát triển mới. Các tuyến đường giao thông
liên thôn đã được nâng cấp trong đó nhiều tuyến được rải đá cấp phối, beton
hóa, ô tô đã đi đến được hết các thôn bản trong xã.
Hạ tầng
và đời sống văn hóa: Điện lưới quốc gia được đầu tư từ năm 1998, với 9 công trình thủy lợi gồm đập và các phai đầu
mối, trong đó có 4.489 m kênh mương đã được kiên cố hóa. Xã có khu chợ trung tâm được xây dựng khang trang giúp cho người dân
lưu thông hàng hoá, mua bán trao đổi được thuận tiện tạo đà cho kinh tế địa
phương phát triển; số hộ nông dân sản xuất giỏi ngày càng tăng ở cả các thôn
vùng cao. Trường học, Trạm xá xã được đầu tư xây dựng. Hiện nay xã có 31
phòng học (1 THCS, 2 Tiểu học và 1 Mầm non) xây kiên cố và 01 trạm y tế xây cấp 04 gồm 04 phòng, về cơ bản đã đáp
ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho người dân.
Về đời sống
văn hóa, tâm linh: Đời sống và sự hưởng thụ văn hóa tinh thần của
người dân ngày một nâng cao; Tỉ lệ hộ đạt “Gia đình Văn hóa”, thôn bản, cơ quan
đạt tiêu chuẩn văn hóa ở mức ngày càng cao.
Đặc tính ưa
quần tụ, dễ hòa đồng của người châu thổ lên khai hoang đã ảnh
hưởng đến người bản địa, làm hạn chế dần đặc tính du canh, du cư của
họ. Chính sự hỗn dung đó đã tạo ra một sắc thái văn hoá mà
Phong Niên không như ở vùng châu thổ và cũng không còn miền núi gốc. Trong xã dân chúng đa phần theo Phật giáo, một
ít theo đạo Thiên Chúa. Ngày Sóc (mồng
Một, 朔), Vọng (Rằm,望) các già thường tụ tập nhau niệm Phật tại Liên
Hoa Tự 蓮花寺, là ngôi Chùa do các cụ tự lập
nên từ 1987 ngoài Km37 và đến ngày 27/01/2010 Sở Nội vụ tỉnh Lào Cai có văn bản số 55/SNV-TG công nhận
Liên Hoa Tự ở Phong Niên là nơi thờ tự đạo Phật. Từ cuối 2013 Chùa đã khởi động việc xây dựng, mở
rộng. Trong xã có 1 Nhà thờ họ của người theo đạo Thiên Chúa ở km 32 thôn Tân Phong 2; 3 điểm sinh hoạt đạo Tin lành ở Phình Giàng, Làng có 1 và Làng Có 2,3.
Lễ Hội "Xuống đồng" của dân tộc Nùng, Lễ Hội "Gầu Tào" dân tộc Mông là những sinh hoạt cộng đồng đặc sắc lôi cuốn nhiều người tham gia.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong những năm qua đã làm thay đổi dần tính
chất của nền kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế thị trường. Cơ sở hạ tầng
giáo dục, y tế … có bước chuyển biến tích cực. Đời sống nhân dân từng bước được
cải thiện và nâng cao, an ninh chính trị được giữ vững. Song tình hình ANTT có những phức tạp mới. Đặc
biệt việc du canh, du cư, việc tuyên truyền Đạo Tin lành trái phép, buôn bán ma
túy. Trong đó có nơi, có thời điểm trở thành điểm nóng về ma tuý, từng được mệnh
danh là “Nà Ư của Bảo Thắng”.
Với lợi thế vốn
có và trong hoàn cảnh thuận lợi chắc chắn rằng Phong Niên sẽ vững bước đi lên
giầu mạnh, văn minh đúng như tên gọi 豐年 của nó mà tiền nhân đã chọn là “năm được
mùa”.
[1] Kinh Thi có câu: 豐年,秋冬報也 (“Phong
niên, thu đông báo dã”, tức “Năm được mùa, mùa thu mùa đông báo tin cho”).
Tên làng xã được đặt với mong muốn được mùa, như Phong Lẫm 豐廩, Phong Mỹ 豐美.
[2] Tại Bắc Ngầm, gồm tám công cụ: hai chiếc rìu lưỡi ngang có nhiều
vết đẽo nhỏ cẩn thận, bốn chiếc rìu lưỡi dọc và hai chiếc mũi nhọn được chế tạo
từ những viên cuội hình bầu dục. Ngoài ra còn tìm thấy một hòn cuội to lạ
được ghè ba mặt. Xung quanh viên cuội này còn tìm được 21 mảnh tước.
[3] Văn hoá Sơn Vi mang tên xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao tỉnh Phú
Thọ, do các nhà khảo cổ Việt Nam phát hiện và xác lập danh pháp vào năm 1968. VHSV
có niên đại cuối Cánh Tân (Late
Pleistocene), tồn tại trong khoảng từ 23.000 đến 11.000 năm cách ngày nay.
[4] 暠 và 皜 ngoài âm “hạo” có nghĩa là sáng sủa còn có âm nữa là “cảo” mà
“Cảo” 杲 lại một tên húy không
công bố của vua Gia Long nên năm Minh Mệnh
17/1836 định lệ kiêng húy, phải đổi.
[5] Kinh Thi có câu: 豐年,秋冬報也
("Phong niên, thu đông báo dã",
tức
“Năm được mùa, mùa thu mùa đông báo tin cho”). Nhiều tên làng xã được
đặt với mong muốn được mùa, như Phong Lẫm 豐廩, Phong Mỹ 豐美, Phong Niên 豐年.
[6] Như vậy
Phong Niên khi đó bao gồm cả bên tả ngạn thành phố Lào Cai và xã Thái Niên,
Phong Hải nay. Xem trong địa danh rất nhiều tên Nôm lẫn tên Hán gốc tiếng Tầy lẫn
gốc tiếng Mông-Dao và nhất là nhiều địa danh kèm từ “Mán” phải chăng ngày đó
người Dao chiếm tỉ lệ cao. Từ sau 1986, người Mông từ Bắc Hà xuống cư trú nhiều
các thôn rẻo cao, người Dao chỉ còn lại ở làng Cung, My...
[7] Việc phân chia cương vực thôn bản giai đoạn này
cũng như quá trình thành lập Chi bộ xã Phong Niên chưa khảo cứu được.
[8] Đồn Phố Lu, vị trí yết hầu án ngữ cửa ngõ Lào Cai do Vallet
Olivie làm đồn trưởng, Châu uý Nông Du Trang 农愉奘 là Đồn phó. Ông người xã Phong
Niên huyện Bảo Thắng, biết tiếng Pháp, chữ Hán, từng được đ/c Trần Long khi
công tác tại huyện bộ Việt Minh Bảo Thắng giác ngộ từ 1946, rồi được cử làm Chủ
tịch Ủy ban kháng chiến huyện Bảo Thắng. Sau khi Pháp tái chiếm Lào Cai, chính
quyền Cách mạng có kế hoạch đưa ông và gia đình cùng các cơ quan của huyện về
Lục Yên. Nhưng ông xin ở lại với lý do phải lo cho gia đình, nhưng có lời hẹn
khi nào quân ta trở lại sẽ ra làm việc tiếp. Giặc Pháp lôi kéo ông ra làm châu
úy. Khi chuẩn bị nhổ đồn Phố Lu, Ban chỉ huy của ta nhận định: Với uy tín của
cách mạng và sự tiến triển của tình thế, chắc chắn ông Nông Dư Trang sẽ ngả
theo ta và kết quả đúng như vậy. Lúc 4 giờ kém 15’ ngày 05/3/1949, khi loa gọi hàng vừa vang lên, Châu uý
cùng 2 người lính thân tín đã bắn chết Đồn trưởng sau đó tập hợp 43 lính Bảo an
mang toàn bộ vũ khí nộp. Việc diệt Đồn Phố Lu đã tạo điều kiện chiến dịch
Lao-Hà toàn thắng.
Trong
chính quyền liên hiệp sau giải phóng Lào Cai, Nông Dư Trang là Phó Chủ
tịch huyện Bảo Thắng. Từ 8/1968 nghỉ hưu cùng sống với người con thứ là Nông Văn Thèn ở Làng Đo Ngoài, xã Thái
Niên, tới 11/1975 về Phong Niên ở cùng người con cả là Nông Khải Hồ (农凱胡 thày dạy tôi năm lớp 3,4) tại thôn Cốc Tủm. Cụ mất ngày
23/6 Bính Thìn (thứ Hai ngày 19/7/1976)
sau khi ốm nặng tại nhà con trai thứ là Nông Khai Xá ở Cốc Tủm (Phong Niên). Vợ hai và người con cả đã
chuyển lên ở tại Tổ 6 phường Lào Cai
[9] Nguyên đây là con đường từ Phố Ràng ngược ven
sông Chẩy lên Bảo Nhai có từ thời kháng chiến là con đường chuyển quân,
khí giới và lương thực, nối liền Yên Bái với Lào Cai. Sau hoà bình, năm 1957,
cùng với việc khôi phục và xây dựng các tuyến đường bộ Lào Cai - Bát Xát, Lào
Cai - Mường Khương, Lào Cai đã khôi phục nâng cấp tuyến Phố Lu - Bắc Hà trong
đó có đoạn ngã ba Bắc Ngầm đến ngã ba đi Bắc Hà nay.
Năm 1965 ta
đang làm dở thông xuống Yên Bái phải rút sang Bắc Cạn xây dựng đường
vào ATK của Trung ương. Đoạn Lào Cai đi Phố Ràng vừa được tu bổ, nâng
cấp chỗ mở mới. CNQP và các trận địa pháo đóng quân trên đường vào
thôn, lẫn trong khu sản xuất của dân , thường cử người vào biếu muối,
dầu hoả, xà phòng là những thứ nhu yếu phẩm khan hiếm hồi đó, kèm
theo là trước tác, huy hiệu Mao Trạch Đông 毛澤東 và hoạ báo TQ tuyên truyền về Cách mạng
văn hóa 文化大革命, về Người cầm lái vĩ đại 伟大舵手, về “Chủ nghĩa xét lại hiện đại
của LTK”, về người kế tục Lâm Bưu, rồi lại “Phê Lâm, đả Khổng”... Học
sinh, thiếu nhi được dạy bài ca ngợi tình hữu nghị Việt Nam-Trung Hoa,
ca ngợi Mao Chủ tịch bằng tiếng Việt hay bằng tiếng Hoa . Ngoài ra
còn được xem Phim TQ ( Kinh kịch:
Bạch Mao Nữ, Một mình đánh núi Uy Hổ, Tài liệu: về CMVH, Film Nguyễn
Văn Trỗi...), nhưng không có thuyết minh bởi cấp Tiểu đoàn mới có
phiên dịch. Lần đầu tiên người dân trong vùng được thấy những chiếc xe
ủi, máy gạt hoặc những chiếc xe Giải phóng 解放 phải buộc thêm xích vào bánh để chống trơn
khi kéo xe ngoạm đất, được xem Xiếc, được sử dụng thuốc ôm đầu khá
hiệu nghiệm.
Khi hoàn thành gọi là đường Hữu nghị 7. Từ thập niên 80 thế kỉ trước mới gọi là Quốc lộ 70.
Nay là một tuyến giao thông đường bộ cấp quốc gia nối các tỉnh vùng Tây Bắc Việt
Nam là Phú Thọ, Yên Bái và Lào Cai với nhau. Tuyến đường dài 185 km chạy bên bờ
tả ngạn sông Hồng từ ngã ba thị trấn Đoan Hùng đến ngã ba Bản Phiệt (ngã ba nối với quốc lộ 4D) tỉnh Lào Cai.
Đoạn qua địa bàn Lào Cai (cụ thể là các
huyện Bảo Yên, Bảo Thắng và thành phố Lào Cai) dài 79 km, qua địa bàn Yên
Bái (Lục Yên, Yên Bình) dài 90 km.
Tuyến đường này được xây dựng từ thập niên 1970 theo tiêu chuẩn đường cấp 5 đã
xuống cấp nghiêm trọng từ lâu. Hiện đang có dự án cải tạo lại quốc lộ này và
nâng cấp lên tiêu chuẩn đường cấp 4.
[10] Lứa các em tôi cũng từng được PLA cõng qua suối
khi lũ về, trẻ bé không lội qua để đến lớp được.
[11] Theo Điều I, Quyết định số 307/QĐ-NV ngày
20/9/1966 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ thì xã Phong Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào
Cai được tách ra thành 2 xã và xã Phong Hải có 8 thôn, gồm: Tiền Phong, Tổng
Gia, Ải Dõng, Ải Nam, Cống Hồ, Vĩnh Phong, Vi Quang và Tam Thắng
[12] Tôi là 1 trong 19 học sinh lớp 7 Khóa 1 của trường
này chuyển từ trường Phong Hải xuống và năm đó tôi đạt giải Nhất thi học sinh
giỏi Toán tỉnh Lào Cai (có đăng trên báo
Lào Cai đổi mới thời đó).
[13] Đường này do lực lượng TNXP tỉnh Thuận Hải (sáp nhập 2/1976 giữa Ninh Thuận, Bình Thuận
và Bình Tuy; đến 1991 lại tách ra thành Ninh Thuận và Bình Thuận), kết
nghĩa với Hoàng Liên Sơn cùng quân dân HLS mở từ sau 2/1979. Đến 9/1983 UBND tỉnh
Hoàng Liên Sơn huy động dân công và thanh niên các huyện tuyến sau lên mở rộng
và nâng cấp. Đây là đường chiến lược nối thông 3 huyện Bảo Thắng, Mường Khương,
Bắc Hà. Đường Hoàng Liên Sơn II (tỉnh lộ
155) là nối Mường Hum, Bản Sèo (Bát Xát)- Ô Quý Hồ-Sa Pa-Thanh Phú.
[14] Với diện tích rừng hiện có của xã là 688,80 ha
chiếm 16,19% tổng diện tích tự nhiên. Trong đó rừng tự nhiên chiếm 51,23% diện
tích rừng, rừng trồng chiếm 37,15% diện tích rừng hiện có
[15] Có sử dụng tư liệu trong Khoá luận tốt nghiệp TCCT viết năm
2004 của Lương Đức Luân.
[16] Rất tiếc, sau khi An Hồ (An Phong+Vĩnh Hồ) tách ra thì An Phong lấy lại tên, địa danh Vĩnh Hồ
mất nên ý nghĩa “người Vĩnh Bảo lên Sả Hồ” khai hoang không còn nữa mà thành An Hồ. Địa danh Sả Hồ (下河, ao dưới) được hậu thế gán cho một thôn cạnh An
Phong mà xưa là xóm 8 hộ, chẳng có ao hồ gì ! Còn địa danh Làng Cung, Làng Có
xuất hiện khi nào thì tôi chưa tìm thấy tư liệu.
Số liệu về dân cư và tâm linh chỉnh sửa lại theo: http://laocai.gov.vn/sites/baothang/bomaytochuc/cacxaphuongthitran/Trang/20140220141440.aspx
Trả lờiXóa