Do sinh kế, từ Tiên Lãng tổ tiên nhà tôi vượt Văn Úc sang bên này sông (tức đất An Thọ, Chiến Thắng thuộc huyện An Lão bây giờ) từ giữa thế kỷ XVIII. Việc tìm hiểu dư địa chí vùng đất mà nay là xã Chiến Thắng gặp nhiều khó khăn bởi không tìm thấy tư liệu. Các tài liệu thành văn mới tìm thấy là từ thời Đồng Khánh trở lại đây.
Địa danh An Lão (安老=bình yên lâu dài) trở thành một huyện từ thời Trần (gồm đất đai của An Lão, Kiến Thuỵ, Kiến An và Đồ Sơn hiện nay) thuộc châu Đông Triều, phủ Tân Hưng.
Những năm cuối thế kỷ XIX An Lão thuộc tỉnh Kiến An, gồm các tổng: An Luận, Văn Đẩu, Phù Lưu, Biều Đa, Cao Mật, Du Viên, Đâu Kiên, Câu Thượng, Quan Trang, Phương Chử, Đại Hoàng, Đại Phương Lang: 安論, 文斗, 芙畱, 裒多, 高密, 榆圜, 兜堅, 枸上, 觀莊, 方渚, 大黃, 大方榔[2].
Khi dưới huyện là tổng và vào thời Đồng Khánh (1886-1888) vùng đất bên hữu ngạn sông Văn Úc cạnh bến Khuể là đất các tổng Đại Phương Lang và Cao Mật. Còn trước nữa mang tên tổng, xã gì thì chưa kê cứu được.
Tổng Đại Phương Lang, Cao Mật trong Bản đồ Đồng Khánh |
Còn tổng Cao Mật 高密總 gồm xã Cao Mật 高密, Kim Côn 今崑, Côn Lĩnh 崑嶺, Mông Tràng Thượng 蒙場上, Mông Tràng Hạ 蒙場下, Phương Lạp方粒, Cốc Tràng 谷場 và thôn Tôn Lộc 尊祿 nay là đất xã Chiến Thắng giáp An Thọ. Cư dân chủ yếu là dân ngụ cư đến từ nhiều đời trước, thuần nông, trình độ dân trí không cao.
Lịch sử và truyền ngôn ghi nhận: vào khoảng thế kỷ XV, XVI vùng đất Cao Mật bên tả ngạn Văn Úc, do cách không xa cửa biển là mấy nên là bãi bồi, đầy vũng trũng, sú vẹt. Khi nhà Mạc (莫朝, 1527-1592) lập kinh đô ở Nghi Dương (nay là quận Kinh Dương) đưa tre từ Thanh Hoá về, tập hợp dân đóng kè, quai đê lấn biển, nắn sông, lập nên làng ấp, trong đó có các làng vùng Cao Mật. Lâu dần, dân khai phá bồi đắp thành đồng lúa.
Như vậy vùng đất ven sông Văn Úc của các xã An Thọ, Chiến Thắng thuộc An Lão nay ngày ấy còn hoang thưa lắm. Lúc này thời loạn lạc Lê - Mạc (1533-1592) đã qua, nhưng cuộc tranh chấp Trịnh – Nguyễn (1570-1777) còn gay gắt. Chính chế độ hà khắc, thuế khóa nặng nề, sưu dịch phiền nhiễu, lòng dân ly tán và loạn đảng khắp nơi, chiến tranh liên miên, triều đình không rảnh tay lo mở mang, kiến thiết, khoan thư sức dân lại thiên tai liên tiếp (các trận bão, lụt giữa thế kỷ XVIII) đã đẩy dân nghèo (trong đó có Thượng tổ họ Lương Cao Mật) càng cơ cực phải phiêu cư bạt tán kiếm kế sinh nhai, trốn tránh giặc giã và quan lại. Sau nhiều thế hệ, con cháu họ cùng với những gia đình họ Nguyễn, họ Mai...ở trước ngày một đông hình thành nên một vùng quần cư bên Tả ngạn sông Văn Úc, bên kia là địa phận huyện Tiên Lãng.
Nếu như các xã bên cạnh đều có danh nhân, như Trần Tất Văn ở Nguyệt Ánh[3], Hoàng giáp Lê Khắc Cẩn[4] ở Đại Phương Lang thì suốt thời phong kiến, tổng Cao Mật có duy nhất nhân vật Phạm Đoàn Mậu (抟懋, ở Kim Côn, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ, xuất thân khoa Ất Mùi 1475, làm quan đến chức: Hộ bộ thượng thư, tri chiêu văn quán, Tú Lâm cục, Tước Cẩn Lễ nam) là được chép trong sử sách.
Khi giành chính quyền, 6/1946, 7 xã thuộc tổng Cao Mật được chính quyền mới nhập thành 2 xã: Cảnh Hưng (gồm: Mông Tràng Hạ, Phương Lạp, Tôn Lộc và Cốc Tràng) và Kim Lĩnh Thượng (gồm: Kim Côn, Côn Lĩnh, Mông Tràng Thượng). Riêng xã Cao Mật của tổng Cao Mật xưa thì thuộc về xã An Thọ (tổng Đại Phương Lang cũ) và đây là thôn duy nhất của xã này giáp sông Văn Úc. Chính quyền thôn xã thiết lập xong, đi vào hoạt động cũng là lúc toàn dân bước vào cuộc kháng chiến 9 năm.
Giữa cuộc kháng chiến, đêm 25/9/1949 ta diệt đồn Khuể. Đây là trận để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong việc gây nhân mối trong hàng ngũ địch kết hợp thành công với lực lượng tiến công từ ngoài vào. Để ghi nhớ trận binh biến đó và phù hợp với hoàn cảnh mới, Cảnh Hưng và Kim Lĩnh Thượng nhập lại mang tên mới: Chiến Thắng (từ 05/10/1950) giáp với An Thọ. Đến 20/7/1954 miền Bắc được giải phóng nhưng vì nằm trong khu tập kết 300 ngày nên quân Pháp vẫn chiếm đóng tại xã đến ngày 10/5/1955 QĐNDVN tiếp quản huyện An Lão, tx Kiến An xã Chiến Thắng được giải phóng hoàn toàn.
Ngay từ 1977 xã đã bí mật thực hiện việc khoán khoai tròn và ruộng lợn vì thế kinh tế có khá hơn nhưng không bền vững. Sau đó, có thời gian (1983-1985) xã là điểm nóng về an ninh, chính trị của thành phố, đặc biệt tại khu phà Bến Khuể khi chưa có quốc lộ 10, thường xuyên xảy ra nạn cướp giật, móc túi, trộm cắp và xã Chiến Thắng trở thành “điểm nóng” về mất trật tự an toàn xã hội. Hệ thống chính trị cơ sở gần như tê liệt. Người dân mất lòng tin với cán bộ, thường kéo lên Trung ương khiếu kiện, khiến tình hình an ninh địa phương rất phức tạp kéo theo các chỉ tiêu phát triển kinh tế, xã hội của xã luôn yếu kém, “dẫn đầu” từ dưới lên.
Những năm 19xx, nhờ chủ trương đúng, nhiều người tuy không li hương nhưng li nông đi làm ăn nơi khác, đem lại những đổi thay cho xóm làng. Xe Công nông mang hiệu Chiến Thắng đóng tại Kiến An giúp nhiều vùng quê giải phóng được sức lao động trong những năm đó. Đồng thời, Chiến Thắng đó vươn lên trở thành điểm sáng về phong trào chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở Hải Phòng với nghề trồng cây cảnh. Trong xã có Chùa Tôn Lộc được công nhận là Di tích bởi Quyết định số 3025 /QĐ - UB ngày 30 / 10 / 2001 của UBND thành phố. Hiện nay, Chiến Thắng và là xã xa nhất nằm phía Đông Nam của huyện An Lão: Bắc giáp Tân Viên, Mĩ Đức; Đông giáp An Thọ; Nam, Tây Nam giáp sông Văn Úc 文郁 (bên kia là địa phận các xã TT Tiên Lãng; các xã Quang Phục, Quyết Tiến, Tân Tiến, Tự Dương của huyện Tiên Lãng), Tây Bắc giáp xã Tân Viên. Như vậy, ranh giới xã được xác định bằng sông Văn Úc, sông Đa Độ, đầm và các con kênh. Đường 354 từ Kiến An sang Tiên Lãng chạy ngang qua giữa xã hợp với đê Văn úc và con đường liên thôn từ Cốc Trang lên Tân Thắng tạo hình chữ “can” 干. Phải chăng nó chỉ bến sông, bến nước trong “hà can” 河干? Diện tích 882,86 ha, dân số 6.018 người (2006), chia làm 7 thôn: Cốc Tràng, Tôn Lộc, Phương Hạ, Mông Thượng, Côn Lĩnh, Kim Côn, Tân Thắng[5] và khu dân cư Bến Khuể[6].
Làng Hương 廊香 (tên chữ xưa là Phương Lạp 方粒) là một làng nhỏ, dân ít ở giữa tổng Cao Mật 高密總, huyện An Lão 安老縣, phủ Kiến Thuỵ 建瑞府, trấn Hải Dương 海陽鎭. Theo các bậc cao niên kể lại thì “tên làng là 廊香, với nghĩa là “thơm, tốt đẹp” nơi “đất lành chim đậu” còn làng Hạ là nơi chim mòng xà xuống 蒙下, làng Thượng chim mòng no bay lên 蒙上”; còn “tên chữ của làng là Phương Lạp 方粒, với nghĩa là nơi nhiều gạo tốt”. Điều đó chứng tỏ là làng cổ có truyền thống cấy lúa trước các làng là bãi chim mòng 鸏.
Làng này có từ bao giờ và ai, dòng họ nào là người đầu tiên đứng ra khai lập thì chưa thấy ai tìm hiểu được và biết rõ, Trong Gia phả họ Lương thì khi Thượng Tổ đến đây lập nghiệp đã thấy có người họ Mai, họ Nguyễn cư ngụ rồi.
Làng nằm 2 bên (chủ yếu là bên Trái) đường 354 liên huyện từ Kiến An sang Tiên Lãng, cách Bến Khuể 1 Km. Đình 亭 và Chùa 寺 nhỏ, ít đồ tế khí, nằm gần 2 bên con đường nhìn ra cánh đồng giáp đê. Cạnh Đình có giếng tròn, có bậc đá dẫn xuống cả làng dùng nước, quanh giếng trồng dứa dại. Góc sân Đình, cạnh lối vào làng có cây bàng lớn. Đình xây trên bậc tam cấp được xếp bởi những phiến đá xanh to. Chùa cũ bên sông đào bị đổ, Chùa mới lập những năm 1930 ở xóm trại ngoài làng, trong một khuôn viên nhỏ. Sau khi hoàn thành cải tạo XHCN, đồ tế khí ở Đình được chuyển vào Hậu cung, gian ngoài giành cho lớp Vỡ lòng. Đó cũng là thời kỳ làng được biết dưới cái tên HTX Tân Trào. Các làng khác cùng xã như làng Hầu, Hạ, Thượng, Cốc, Lộc, Kim Côn đều có cả Chùa lẫn Nhà thờ, riêng làng Hương không có ai theo Đạo Thiên Chúa.
Cuối những năm 1960 Chùa, Đình làng đều đã dỡ bỏ, chuyển mục đích sử dụng đất. Ranh giới giữa làng Hương và làng Hạ là con đường nhỏ, năm 1965 hợp nhất thành Phương Hạ và được gọi là thôn.
Nhà cửa trong làng thấp, tường trình đất, mái lợp rạ, cói, ít nhà có sân gạch, lợp ngói, vườn rộng. Đầu làng nơi giao nhau của tỉnh lộ 354 với đường liên thôn từ Cốc Tràng lên Kim Côn có một chợ nhỏ thường gọi là Quán Hương. Cả thôn có 10 dòng họ trong đó 2 dòng họ lớn là Lương 梁 và Đặng 鄧, do đó các gia đình hầu như có quan hệ họ mạc nối dây chéo nhau. Trong những năm sau 1986, nhiều vũng, hồ, bãi lăn rìa làng đã được lấp đầy thành ruộng, vườn, đất ở nên làng rộng ra và sung túc hơn, kéo liền từ giáp chợ Thái xuống gần Bến Khuể. Ranh giới giữa Hương-Hạ cũ chỉ còn là con đường liên xóm đã được bê tông hóa từ những năm 1966 gọi là thôn Phương Hạ và một số hộ đã chuyển cư sống xen kẽ giữa 2 làng cũ.
[1] Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Cầu bị Phạm Đình Trọng, Hoàng Ngũ Phúc dẹp yên.
[2] Riêng về địa danh thì: Chiến Thắng=Cao Mật, Mỹ Đức=Biều Đa, Đại Phương Lang=An Thọ...còn Phù Lưu và Văn Đẩu về Quận Kiến An.
[3] Trần Tất Văn (陳必聞, ? - ?), người xã Nguyệt Áng, huyện An Lão, phủ Kinh Môn, Hải Dương (nay thuộc quận Kiến An, thành phố Hải Phòng), đỗ đầu đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ (Trạng nguyên) khoa tháng tư, Bính Tuất, Thống Nguyên năm thứ 5 (1526), đời Lê Cung Hoàng cùng Nguyễn Văn Du, Lưu Trung Doãn 3 người đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ; bọn Lê Quang Bí 4 người đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân; bọn Phạm Đình Quang 13 người đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
Trần Tất Văn sau ra làm quan cho nhà Mạc tới thượng thư, tước Hàn Xuyên bá. Từng đi sứ nhà Minh.
[4] (黎克謹,1833-1874) quê ở thôn xã Hạnh Thị, tổng Đại Phương Lang, huyện An Lão, phủ Kiến Thụy, tỉnh Hải Dương (nay là thôn Hạnh Thị, xã An Thọ, huyện An Lão). Ông đỗ tiến sĩ (Đệ nhị Giáp tiến sĩ hay còn gọi là Hoàng Giáp) dưới triều Nguyễn. Ban đầu làm việc ở Viện Tập hiền, Tòa Kinh diên, sau đó mới chuyển đi làm Tri phủ, Án sát, rồi Bố chính. Ông là người 'luôn luôn đứng về phe chủ chiến, chống lại bọn thực dân Pháp.
[5] Tân Thắng mới thành lập 19/5/1995.
[6] Con phà Khuể nối An Lão với Tiên Lãng ngày xưa còn gọi là phà “khổ”. Nơi đây, 11h30 đêm tháng 7/1978 một cơn bão ma đi qua làm lật đò đã cướp đi 20 thi thể trong lúc dòng sông đang chảy mạnh ra biển, ngày hôm sau người ta chỉ tìm thấy xác con đò nát và một thi thể ở trong rừng đước. Sáng ngày 20/10/2007, tại khu vực phà Khuể (phía bờ Tiên Lãng), Ban quản lý các Dự án cầu Hải Phòng long trọng tổ chức lễ khởi công xây dựng cầu Khuể. Cầu này tại vị trí cách bến phà Khuể 72 m về phía thượng lưu, nơi dòng sông rộng hơn 700 m và sâu hơn 10m, dài 787 m, rộng 11 m, tĩnh không thông thuyền cao 10 m. Kết cấu cầu dầm hộp bê tông cốt thép dự ứng lực đúc hẫng và dầm super-T, móng cọc khoan nhồi đường kính 1,2m. Đường dẫn hai đầu cầu có bề rộng nền đường 12m, phần xe chạy rộng 7m. Chiều dài đường dẫn bờ An Lão là 205m, bờ Tiên Lãng là 306,5m nối vào đường tỉnh lộ 354. Tiến độ thực hiện dự án 2007-2010, đã hoàn thành vào 9/2010.
Cao Mật tục gọi làng mật. Nay ở An Thọ còn có làng Đại, làng Trung...
Trả lờiXóaChiến Thắng có làng Cốc, làng lộc, làng hương, làng Thượng...
Làng có trên 10 dòng họ gọi là xã, dưới 10 dòng họ gọi là thôn!
Trả lờiXóa