Chữ Hán là chữ tượng hình mang nhiều hám ý sâu xa. Trong đó chữ "Hôn nhân" cũng vậy.
Hôn nhân (H: 婚姻, A: Marriage, P: Mariage) hay Hôn thú 婚娶 là việc cưới vợ gả chồng cho con trai và con gái, việc kết nghĩa thông gia giữa hai họ. Còn Hôn phối 婚配 là sự phối hợp thành vợ chồng của đôi nam nữ.
Qui cách tổ chức xã hội gia đình Việt Nam đã mô phỏng theo hình thức luân lý của Trung Hoa từ mấy ngàn năm. Vào đầu thế kỷ thứ nhất của Công nguyên, sử chép có hai thái thú Trung Hoa là Tích Quang ở quận Giao Chỉ và Nhâm Diên ở quận Cửu Chân là hai người đã “khai hóa” dân Văn Lang về lễ nghĩa theo Trung Hoa. Ðặc biệt là Nhâm Diên đã “dạy dân làm lễ cưới hỏi trong khi lấy vợ lấy chồng, và bắt những lại thuộc trong quận lấy một phần lương bổng của mình mà giúp cho những người nghèo đói để lấy vợ lấy chồng”. Trên danh nghĩa là “khai hóa”, nhưng rõ ràng có một sự “áp đặt” theo tục lệ Trung Hoa mặc dù vào thời tổ tiên người Việt trong xã hội của nước Văn Lang cũ đã có một nếp sống riêng và ngôn ngữ riêng. Tổ tiên Việt do đó qua một ngàn năm Bắc thuộc (111 tCn – 938) đã nhiễm văn hóa Trung Hoa và qua những thế kỷ về sau ta đã dùng Hán tự làm quốc học nên ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa rất sâu dầy. Tinh thần độc lập của người Việt chỉ biểu hiện bằng cách không đọc Hán ngữ 漢字 bằng Hán âm 漢音 mà đọc theo giọng Việt 越音 nên chúng ta đã tạo ra một gia sản ngữ vựng gọi là kho từ ngữ Hán-Việt. Về cách sử dụng danh từ, đương nhiên ông bà tổ tiên Việt cũng có vài biến cải hay giản lược tùy theo hoàn cảnh thích ứng.
Khởi điểm của gia đình là hôn nhân. Bây giờ, hai chữ “hôn nhân” 婚 姻 nghe rất giản dị, thực hiện với sự kết hợp của một nam, một nữ rồi từ đó cứ sinh sôi nảy nở ra. Nhưng nếu đi ngược lịch sử, hôn nhân là một quá trình phức tạp tiến triển rất lâu trên giòng thời gian, không phải một sớm một chiều mà ta có những danh từ chồng vợ, cha mẹ, con cái, cháu chắt liên hệ nhau bằng một sợi giây huyết thống theo thứ bực mà Hán tự gọi là “nhân luân” hay “luân lý”.
Nếu ta trở về vào thời thái cổ cách đây chục ngàn năm thì theo sách Tả Thị Xuân Thu thì: “Ðời thái cổ không có vua, nhân dân ở thành bầy, biết mẹ mà không biết có cha; không phân biệt thân thích anh em, vợ chồng, trai gái, không có đạo trên dưới, già trẻ, không có lệ tới lui vái nhường, không có quần áo giầy dép, nhà cửa, không có đồ đạc, thuyền bè, thành quách ...” Ðó là trạng thái sinh hoạt của lòai người từ đời đồ đá cũ về trước, nhân loại sống từ đàn như bầy thú.
Trong xã hội nguyên thủy, đàn bà con gái làm việc lượm hái trái cây vừa ăn vừa để dành nên coi là nguồn sống trọng yếu, còn đàn ông đi săn bắn thì bữa có bữa không nên phải lệ thuộc vào đồ hái lượm của đàn bà để sống. Chính vì sự nhờ nhau mà sống và nhu cầu bản năng sinh lý mới nảy sinh quan niệm kết hôn. Nhưng đây là hiện tượng “huyết tộc quần hôn”, nghĩa là anh em chị em ruột lấy nhau, mãi đến về sau mới tiến lên trạng thái “bạn lữ hôn nhân” nghĩa là một đoàn anh em chị em cùng nhau thuộc về huyết tộc khác. Trong chữ “bạn lữ” thì “bạn” là người đi cùng như ta có những từ Việt: “trai bạn, thợ bạn”; những cô phù dâu trong Hán tự gọi “bạn nương” đi theo cô dâu là “tân nương”, còn “lữ” tức là lũ người.
Cách đây hơn 5.000 năm, nhân loại mới tiến lên thời đại đồ đá mới biết mài đá sắc để chặt cây cối làm nhà và nung đồ đất. Loài người trước kia theo việc hái lượm và săn bắn nay đây mai đó thì nay đã định cư một nơi. Thời kỳ này tương đương với xã hội thị tộc. Xã hội này gồm hai giai đoạn là thị tộc mẫu hệ và thị tộc phụ hệ.
Trong lịch sử, chế độ mẫu hệ luôn có trước chế độ phụ hệ. Ở dưới quyền bà mẹ chính gây dựng thành một thị tộc, bao nhiêu con cháu của bà hợp thành một thị tộc mà con cái không biết cha là ai nên huyết thống lấy mẹ làm gốc... Ðiều này là một lẽ đương nhiên. Bầy con cái sinh ra trước hết chỉ biết bầu sữa thiên nhiên của người mẹ.
Chữ Mẫu 母 (mẹ) viết với hình tượng người Nữ có hai cái vú, chữ Tử 子 (con) là hình đứa bé được quấn tấm tã. Cái bụng chửa (có mang) trước khi sanh là hình cái dạ con của mẹ chứa cái thai được viết thành chữ Bao 包. Chữ Nhũ 乳 (vú) được vẽ ra từ hình đứa con 子 (Tử) dùng tay bấu víu (Trảo) 爫 vào bầu sữa mẹ. Nhi 兒 (đứa bé) là hình người hai chân có cái xương sọ thóp còn hở.
Nhũ bộ là cho bú mớm (chữ bú của Việt ngữ là do chữ bộ 哺 trại ra). Tình cảm quyến luyến giữa mẹ và con do sự nuôi bằng vú mẹ: cho đến lúc nó thân thể có da có thịt và biết đi lững chững. Do đó chữ Dục育(nuôi nấng) viết bằng chữ Tử ㄊ + Nhục月 (肉: thịt) và chữ Sung 充 (đầy đủ) viết ra hình hai cái chân dưới chữ Tử ㄊ.
Bầy con đẻ ra phải quây quần sống với mẹ dưới một nóc nhà an toàn để được bú mớm hay nuôi dưỡng bằng những thức ăn nấu trên một bếp lửa và lột da thú mà khâu lại úm bọc cho khỏi rét. “Người mẹ” và “Bếp lửa” chính là biểu tượng nguyên thủy của một gia đình sơ khởi. Chữ An 安 (yên) viết với chữ Miên 宀 (nóc nhà) + Nữ 女 (đàn bà). Cái nhà sàn sơ khởi cao nghệu thường là người ta leo thang lên sống từng trên cho khỏi thú dữ, còn bên dưới là chuồng nuôi con heo do tay người mẹ chăn nuôi. Chữ Gia 家 (nhà) viết với bộ Miên 宀 (nóc) + Thỉ 豕 (con lợn). Truyền thống nấu nướng, khâu vá và chăn nuôi gia súc của người phụ nữ đã phát triển từ đó và duy trì cho đến nay.
Ðàn bà do sự hái lượm mà phát sanh ra sự trồng tỉa về nông nghiệp. Thời xưa, chuyện con cái đẻ ra “biết mẹ mà không biết cha” đã được chứng minh qua các truyền thuyết hoang đường trong sách Xuân thu Công dương truyện chép rằng những thánh nhân thời thái cổ như Tam Hoàng, Ngũ Ðế trong thần thoại đều không có cha như Phục Hi có mẹ là Hoa Tư “dẫm phải dấu chân người khổng lồ” mà sinh ra ông; Hoàng Đế có mẹ là Phụ Bảo thấy điện vây quanh sao Bắc Đẩu... cảm ứng mà có thai ông; Vua Nghiêu có mẹ là Khánh Đô hợp cấu với rồng đỏ mà sinh ra.
Trong sử Việt Nam, cũng đầy chuyện thần thoại về các danh nhân như vua Ðinh Bộ Lĩnh bơi lội tài tình vì có cha là con rái cá gần với mẹ mình ở bờ sông, vua Lý Công Uẩn sanh ra là do mẹ là Phạm thị đi chơi chùa Tiêu Sơn mộng thấy “đi lại” với thần nhân rồi về có thai ông. Ngẫm nghĩ chữ “đi lại” và chữ “cảm ứng” thiệt thú vị, với ý nghĩa kín đáo song phương của nam và nữ khi kết hợp. Việt Nam nói hai chữ Vợ Chồng chắc là ban sơ người ta dựa theo cái nhìn thực tế: người nam đè “chồng” xuống, kẻ nữ dưới “bợ” lên? Giai đoạn có hai chữ “vợ chồng” chắc là giai đoạn nhân loại đã đi bằng hai chân thẳng đứng (homo erectus), không còn đi bằng 4 tay như loài khỉ vượn. Tư thế giao cấu tiên khởi có lẽ là thế “nhập hậu” (rear entry; rear position) rồi sau mới tiến tới tư thế chồng lên nhau, mặt áp mặt với khúc dạo đầu hôn hít (loveplay prelude).
Hình ảnh của người Mẹ (Nữ) là khởi điểm của những cơ cấu tính tộc hay thị tộc Trước hết, chữ Tính 姓 (họ) viết là chữ Nữ 女 + Sanh 生. Chữ Thị 氏 cũng nghĩa là họ, thường dùng để chỉ tên đời, tên nước như Phục Hi thị, Thần Nông thị... và cũng là lời gọi xưng người phụ nữ như Thị này, Thị kia. Theo sách Thuyết văn giải tự của Hứa Thận, chữ Thị nguyên thủy chỉ hình dáng loại bèo thủy sinh nổi trôi, không rễ nhưng sinh sôi nảy nở từ một hạt bé tí như bèo tấm, về sau hiểu rộng ra là bộ lạc, một thị tộc vào thời thái cổ như trên đã nói, loại bèo này phát triển từ trên mặt nước đâm xuống dưới đáy, nên do đó chữ Thị thêm một chấm bên dưới thành chữ Ðể 氐(đáy).
Về chữ Hôn 昏 là hiện tượng khi vầng mặt trời lặn gọi là “hôn” trong chữ hoàng hôn viết với chữ Nhật 日 (mặt trời) + Ðể 氐(đáy). Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, lễ cưới ngày xưa cứ đến tối mới đón dâu nên gọi là “hôn lễ” 婚禮, về sau chữ Hôn này đổi ra viết với bộ Nữ. Ý niệm hôn nhân xảy về “đêm” trở thành tục lệ vì bóng tối đồng loã với ái tình vì hai bên nam nữ còn e thẹn.
Về từ Hôn trong Việt ngữ: Ta có chữ hôn hít, hoàn toàn không dính gì với hôn lễ, hôn nhân mà có lẽ do chữ Vẫn 吻 của Hán tự đọc trại ra chăng. Vẫn 吻 viết với chữ Khẩu 口 (mồm) là mép, và sự vật gì giống in như nhau gọi “vẫn hợp” 吻合, nên người ta hôn môi nhau là “tiếp vẫn” 接吻 ! Chuyện “hôn môi” phổ biến – French kiss – là do bắt chước qua điện ảnh. Qua kỹ thuật ân ái phòng trung của Tầu, tôi thấy có sự “hôn môi”. Dân Việt trong ngôn ngữ và tục lệ không nói gì về “hôn” mà “hít” qua những từ “thơm má”, “vợ chồng quen hơi”. Ðánh hơi ái tình chính là chuyện tính dục cơ bản về pheronome, về xạ hương dùng làm hương liệu, về cụm từ “thương hương tiếc ngọc”. Trong Kiều 傳翹, khi tả Kim Trọng 金重 nhớ người yêu, Nguyễn Du viết câu 256: 香 蔐味仌茶看愳情 “Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình”. Ðào Duy Anh trong Từ Ðiển Truyện Kiều giảng 味 “gây” là có mùi hơi khó chịu. Hương thì thơm nhưng vì nhớ mà mùi nó thành “gây”, còn 看”khan” tức là khan hiếm nên “khan giọng tình” là vì tương tư mà uống trà thấy chẳng ý vị gì cả.
Chữ Tộc 族 (cũng nghĩa là họ) viết nguyên thủy với hình ảnh một nhánh rễ chạy lan tỏa ra thành nhiều cây con. Theo những nét bốc từ khắc trên mu rùa đào ở Ân Khư thì trong trạng thái “bạn lữ hôn nhân” thì con cái có nhiều cha nhiều mẹ (con một người đàn ông gọi tất cả anh em của cha là cha, con một người đàn bà gọi tất cả chị em của mẹ là mẹ). Xã hội thị tộc dựa vào di chỉ khảo cổ ở Ân khư có lẽ được phỏng đoán đã chuyển từ thị tộc mẫu hệ qua thị tộc phụ hệ vào bắt đầu đời Thương với chuyện vua Vũ truyền ngôi cho con trai (nghĩa là “truyền tử” chứ không “truyền hiền” như thời các thánh đế Nghiêu Thuấn).
Chế độ phụ hệ phát sinh do sự sinh hoạt của con người đã đạt đến giai đoạn du mục và canh nông. Chăn đàn gia súc là việc của đàn ông; nghề nông từ khi bắt đầu cầy bừa trở nên nặng nhọc là việc của trai tráng sức lực. Ðàn ông con trai với thể lực khỏe mạnh nên nắm quyền sản xuất lương thực thóc lúa nên do đó các con cái sanh ra mang họ của cha làm nền tảng cho phụ hệ, phụ quyền. Chữ Nam 男 (con trai) viết với chữ Ðiền 田 (ruộng) + Lực 力 (sức khỏe).
Hôn nhân cặp đôi bấy giờ thành phổ thông, đàn ông lấy vợ không phải về nhà vợ mà lại đem vợ về nhà mình... Con cái đã biết cha nên sự thừa kế phải theo phụ hệ. Con cái đẻ ra khi chuyện sinh lý bắt đầu nảy nở (Nữ thập tam, nam thập lục) thì con gái được gả ra cho sống với gia đình khác gọi là Giá, còn con trai lấy vợ lại đem về ở với mình gọi là Thú. Chữ Giá 嫁 là gả chồng viết với chữ Gia 家 (nhà) + bộ Nữ 女 (con gái) từ đó có những danh từ xuất giá, cải giá, tái giá. Còn chữ Thú 娶 là lấy vợ viết với chữ Thủ 取 (lấy, chiếm) + chữ Nữ. Trong vài xã hội trước đây, có tục nhà trai tổ chức đi “cướp” nàng dâu vào đêm hôn lễ!
Con gái về nhà chồng là Vu Qui 于歸 (đi về) để trở thành thê hay phụ của người chồng, nhiệm vụ là phụ giúp dọn dẹp nhà cửa và sanh con đẻ cái.
Chữ Phụ 婦 (vợ) bắt nguồn từ chữ Qui 歸 (về), viết với bộ Nữ + Chửu (trửu) 帚 (cái phất trần hay cái nùi dẻ gắn vô cán cây), và đọc lên với âm Phụ giống như âm Phục (vâng phục). Chữ Chửu (cái chổi) viết ra là cái bàn tay cầm cái khăn 巾 (Cân) gắn vào cái cán cây. Trong chữ Qui 歸 (về) gồm có 2 chữ Phụ 阜 và Chỉ 止 (gót chân) diễn tả ý đến nhà chồng để ở luôn không về.
Chữ Thê 妻 (vợ) cũng viết với hình ảnh nguyên thủy là người Nữ tay cầm cái cây chổi. Thê là người vợ mà cha mẹ cưới cho nên trong nét viết nguyên thủy có chữ Quí 貴 nghĩa là đồ quí giá họ nhà trai phải trả cho nhà gái trong tinh thần nạp cheo cưới trong tục gả bán.
Về sau, tự mình bỏ tiền tốn kém lập thêm phòng nhì tức là cưới vợ nhỏ thì gọi là Thiếp 妾 (gồm chữ Lập 立 + Nữ 女).
Chữ Phu 夫 (chồng) là hình người con trai đã đến tuổi khôn lớn mà theo phong tục Trung Hoa bắt đầu đội mũ (quan 冠), tức lễ “gia quan” 加冠. Phu cũng nghĩa là một người có khả năng làm việc, một đơn vị lao động trong nghĩa phu dịch, nếu áp dụng vào người chồng e rằng cũng đúng với vai trò làm lụng đổ mồ hôi để kiếm miếng ăn cho gia đình. Lấy chồng vợ thì sanh ra con cái phải nuôi nấng do công mẹ và dạy dỗ dưới uy quyền của người cha.
Chữ Phụ 父 (cha) viết nguyên thủy bằng bàn tay cầm cây gậy chỉ huy. Và sự nuôi nấng của người cha ngoài thực phẩm còn kèm theo cái gậy, cái roi để dạy dỗ nên chữ Dục 育 (nuôi) còn có thể viết thành chữ Dục育(nuôi) + Phộc攵(đánh khẽ). Quan niệm giáo dục tiên khởi chính là “yêu cho roi, cho vọt” !
Trong luân lý Á Ðông, bổn phận trọng đại nhất của con cái đối với cha mẹ là chữ Hiếu, nhỏ thì vâng phục, lớn lên thì phụng dưỡng cha mẹ khi tuổi già, và thờ phụng hương khói khi cha mẹ qua đời. Nên ý hướng giáo dục tiên khởi là học chữ Hiếu. Chữ Giáo 教 (chỉ dạy) là chữ Hiếu 孝 + Phộc 攵 (đánh nhẹ để răn đe). Nhìn lại từ khởi thủy về ý nghĩa chữ Hôn Nhân, con người đã lần lượt trải qua nhiều giai đoạn từ thị tộc nguyên thủy, qua chế độ mẫu hệ để đi đến chế độ phụ hệ. Qua những nét văn tự Trung hoa sáng chế từ thời thái cổ với chiều hướng tượng hình và tượng ý, chúng ta đã nhìn lại một quá trình phát triển được minh họa theo ý nghĩa sơ khởi của mỗi vai trò nam nữ, vợ chồng trong từng giai đoạn. Cái nhãn quan của văn hóa Á Đông nói trên về hôn nhân có thể nói là trùng hợp tương tự trong đại thể với những nền văn hóa khác của nhân loại.
“Xuất” (出) là ra ngoài, đối lại với chữ “nhập” (入) vào; “giá” (嫁) là lấy chồng nên “xuất giá” (出嫁) là “Đi lấy chồng” là chỉ việc của người con gái không phải của cả nhà gái. Còn “thú” (娶) là cưới, lấy vợ nên “giá thú” (嫁娶) là “Cưới vợ gả chồng”.
Trả lờiXóaLạ nữa là chữ “hôn” 昏 nghĩa gốc là “Tối” và do ngày xưa cưới xin cứ đến tối mới đón dâu nên gọi là "hôn lễ" 昏禮, bây giờ đổi dùng chữ “hôn” ấy thêm chữ “nữ” (女) thành chữ “hôn”婚 chỉ việc Lấy vợ hoặc chồng, kết hôn, cưới: 已婚 Đã kết hôn; 未婚妻 Vợ chưa cưới; Hôn (nhân): 離婚 Li hôn; 結婚 Kết hôn.