Nước
ta vốn là nước “đa thần” nên lắm phong tục ! Một trong những phong tục đó
là vào thời điểm cuối năm, nhiều gia đình tất tả lo việc cải táng, sang cát cho
người thân quá cố của mình.
Có việc
này là bởi quan niệm “Cao nấm, ấm mồ”, việc “chuyển nhà”, “sang cát” là một
trong những việc hiếu đạo của con cháu, thể hiện lòng kính trọng đối với đấng
sinh thành và các bậc tổ tiên đã khuất.
Người theo đạo Phật
hay không theo tôn giáo nào ở miền Bắc, sau khi thân nhân mất thường địa táng (地葬,hung táng 凶葬), sau ba năm đoạn
tang rồi hoặc một vài năm nữa thì con cái lo việc Cải táng (改葬, đổi
cách chôn) liền đó tiến hành Cát
táng (吉葬, là hình
thức mai táng hài cốt sau khi cải táng). Dân gian gọi việc này là “bốc mộ”.
Ngày nay, nhiều ý
kiến muốn bỏ tục này nhưng xem ra khó bởi trong dòng họ, gia đình quanh năm,
lâu dài thế nào chả “có chuyện” và khi ấy nếu đổ cho
việc chưa “xây được mộ tròn” cho tiền nhân thì ai chịu? Và ngày càng có xu hướng
“long trọng” hơn và ngoài việc xem ngày, chọn giờ thì việc tìm đất, đặt hướng
và chọn mầu gạch cũng rất được chú trọng.
1. Một số thuật ngữ cổ liên quan:
“Khải toản” 凱: Cải táng, bốc mộ.
“Lập bi” 立碑: Lập bia cho mộ.
“Động thổ” 動土: Chỉ việc sửa chữa, đào đất khởi công xây dựng cho nhà ở hoặc một
công trình. Đây là chỉ việc xây dựng Dương cơ, khác với Phá thổ chỉ loại mai
táng thuộc về Âm trạch.
“Phá thổ” 破土: Công việc phá hay đào đất để chôn cất, xây, và đắp mộ. Chỉ về công
việc cho âm trạch, khác với “động thổ” ở dương trạch.
“Tu phần” 修坟: Tu
sửa phần mộ và cũng có thể táng thêm người mới chết vào một huyệt của người chết
trước, gọi là “Hợp táng”.
“Tạ thổ” 謝土: Lễ tạ thổ thần sau khi hoàn thành công việc kiến trúc, cơ sở; nghi lễ
cử hành cúng tế này còn gọi là Điền lễ. Sau khi hoàn thành phần mộ và cử hành
cúng tế còn gọi là Hoàn phần.
“Tế mộ” 祭墓: Việc cúng tế phần mộ, cử hành nghi thức khi đắp xong phần mộ, hoặc
là việc tảo mộ trước và sau Thanh minh.
Ngày nay, theo
quy định tại Khoản 8, 9 Điều 2 Nghị định 23/2016/NĐ-CP về xây dựng, quản lý, sử
dụng nghĩa trang và cơ sở hỏa táng thì Cát táng được hiểu như sau: “Cải
táng là việc chuyển xương cốt từ mộ hung táng sang hình thức táng khác;
Cát
táng là hình thức mai táng hài cốt sau khi cải táng hoặc lưu tro cốt
sau khi hỏa táng”.
Từ đời thượng cổ, con người sau chết thường được Điểu táng (鳥喪, đặt xác trên đỉnh núi, treo trên ngọn
cây để các loài chim như: kền kền, quạ,... ăn thịt). Sau này, nếu là “địa táng” 土喪 thì thân nhân cứ để thế đem chôn, không áo quan cũng
không lập phần mộ. Khi xã hội loài người có tổ chức nhà nước cũng là lúc mà con
cháu nhận ra rằng đối với ông bà cha mẹ trong việc mai táng cẩu thả như thế là
thiếu bổn phận, mới chế ra quan, quách để chôn cất dần hình thành nhiều lệ tục.
Lúc đầu cũng chỉ là thân gỗ đục rỗng và chôn vĩnh viễn.
Theo cổ truyền, trong tang ma, an táng, cải táng bao gồm 12 phần việc quan
trọng: - Phá thổ (Phá, đào đất để chôn cất, xây, đắp mộ) - Nhập liễm (Liệm
xác) - Di cữu (Chuyển linh cữu, áo quan ra khỏi nhà hoặc nơi quàn) -
An táng (Cử hành lễ chôn xuống đất) - Khải toản (Cải táng, cải cát, bốc
mộ) - Tu phần (Tu sửa phần mộ, cũng có thể xem chung với việc táng thêm
người mới chết vào một huyệt của người chết trước “Hợp táng”) - Khai sinh
phần (Người còn sống làm mộ trước cho mình) - Hợp thọ mộc (Người còn
sống đóng áo quan trước cho mình) - Tiến Thọ phù (Dâng bùa Thọ gồm 8 chữ,
phóng dâng ra hư không khi làm sinh phần) - Lập bia (Dựng bia mộ, hoặc
bia tưởng niệm) - Tảo xá vu (Quét dọn nhà cửa, đây là công việc trừ linh)
- Thành - Trừ phục (Mặc và bỏ áo tang).
Nhiều người nghiên cứu cho rằng: trước thời Bắc thuộc dân Văn Lang (tiền thân của
nước ta) chưa có tục cải táng. Trong thời kỳ nước ta bị các triều đại
bên Trung Quốc cai trị (北屬時代, 207 tCn- 938), nhiều quan lại và
thương lái chính quốc sang trị nhậm hoặc làm ăn ở
phương Nam bị chết, liêu thuộc hoặc con cháu đã mai táng tại đất Việt. Sau này,
con cháu về nước hoặc từ cố hương tìm sang muốn đưa hài cốt về quê nhà để tiện
bề hương khói nên sinh ra tục “cải táng”.
Về sau thành lệ và người Việt (ở miền Bắc ngày
nay) học theo và thành phong tục. Việc này mau chóng được phổ biến bởi:
- Vì nhà nghèo, khi cha mẹ mất, không tiền lo
liệu, lại thời gian gấp gáp nên tang chủ mua tạm một cỗ ván đóng
bằng gỗ không tốt để mai táng về sau rất sợ ván hư nát thì hại đến di hài;
- Nơi đặt mộ lúc mới chôn cũng chưa kịp chọn kỹ, sau chỗ đất ấy nhiều mối kiến, ngập nước, hay sạt mộ, hoặc
buộc phải chuyển do nhà chức trách yêu cầu thì cải táng;
- Thấy chỗ mả vô cớ mà sụt đất hoặc cây
cối ở trên mả tự nhiên khô héo, hay trong nhà có kẻ dâm loạn điên cuồng, hoặc có người đau ốm triền miên, hoặc liên tục gặp gia biến...cho là “động
mả”, tại đất nên cần cải táng;
- Có những người muốn cầu công danh phú quý, nhờ
thầy địa lý tìm chỗ cát địa mà cải táng. Lại có người thầy nhà khác phát đạt,
đem mả nhà mình táng gần vào chỗ mả nhà kia, để cầu được hưởng dư huệ.
- Hơn nữa, vùng đồng bằng Bắc Bộ là đất pha cát phù sa, khi chôn người mất
xuống phần nhiều là tiêu hết thịt. thậm chí có chỗ đất còn tiêu cả xương nên nếu
không cải táng thì chỉ còn đất, con cháu xót.
Chung quy lại,
bản
chất của cát táng là nghi thức chôn cất tiếp theo sau hơn 3 năm hung
táng. Đây một trong những phong tục tập quán, truyền thống lâu đời của người Việt,
nhằm thể hiện sự thành kính đối với ông bà tổ tiên; là thể hiện cái tâm của người
sống với người thân đã khuất, là không bỏ người thân trong đất ẩm, mà biếu họ một
ngôi nhà mới đẹp đẽ, chắc chắn hơn. Đa số dân Việt cho rằng làm như vậy là đã
giải thoát linh hồn người thân khỏi mộ, người chết có thể biến đổi thành tổ
tiên linh thiêng, linh hồn có thể phù hộ cho gia đình được an lành.
Thổ táng 土喪: chôn xác người chết xuống đất, thường thấy ở Việt Nam, Trung Hoa và các
nước Âu Mỹ bởi niềm tin: “Chúng sinh tất tử, tử tất
quy thổ, thử chi vị quỷ. Cốt nhục tễ vu hạ, âm vi dã thổ, kỳ khí phát dương vu
thượng vi chiêu minh” (眾生必死,死必歸土,此之謂鬼. 骨肉斃於下,陰為野土;其氣發揚於上,為昭明), nghĩa là: con người ai cũng phải chết, chết tất trở về
đất, xương thịt xuống thấp tan biến vào trong đất, còn khí dương bay lên cao
trong sáng rực rỡ.
Khi đó thi xác được chôn trong mộ (thường
là trong một hố đào vào lòng đất gọi là huyệt mộ).
Thông thường sau khi chôn được 3 năm cũng là lúc
mà con cháu đã mãn tang. Nhưng cũng tùy khí hậu khu vực, vị trí đất chôn, thực
tế các mộ quanh đó đã cải mà quyết định. Tiến hành sớm quá, da, thịt chưa tiêu
hết, khi bốc rất thương tâm. Ngược lại để lâu quá xương cốt mối xông hết gia chủ
lại thêm lo. Ví dụ: ở Bắc Hà, Sa Pa do khí lạnh nên có người chôn 7 năm khi cải
phần mềm vẫn chưa tiêu hết hoặc tuy cùng ở Phố Lu, Bảo Thắng nhưng nghĩa địa Đồi
Tên lửa (qua Bệnh viên về phía Nhò) cũng phải 6,7 năm mới bốc mộ được
trong khi nghĩa trang khác cách đó 2 km chỉ 3 năm là sạch.
Năm tiến
hành cải táng phải lựa chọn theo tuổi của người đã qua đời. Ngoài ra
còn phải căn cứ theo tuổi của Trưởng nam (không
Xung, Sát). Đáng chú ý là Tam tai, Kim lâu, Hoang ốc và năm xung, khắc (Can, Chi, Ngũ hành) với tuổi Trưởng nam.
Như Bố tôi mất từ tháng 1/1997 đến đầu năm 2001 (cuối Canh Thìn) định
cải táng song lo phạm tuổi Trưởng và Út nam và nhiều ý ra vào nên để lại, đến ngày 20 tháng 12
năm 2001, tức là ngày mồng 6 tháng mười một 初六日 十一月大, hay ngày
Đinh Tỵ, tháng Canh Tý, năm Tân Tỵ 辛巳年, 庚大月, 己午日 (tức
gần 5 năm) tiến hành cải táng. Có ý kiến cho
rằng năm nhuận không tiến hành cải táng nhưng đáng tiếc, đó là ý kiến sai!
Chọn tháng: Cuối Thu đến trước Đông Chí .
Chọn ngày: Thường
vào dịp cuối năm vì khi đó thời tiết khô ráo. Nhưng phải trước 23
tháng Chạp bởi sau đó Thần Táo lên Thiên đình rồi, minh có làm lễ cũng
không ai chứng giám cho, kêu không thấu, cầu chẳng được nên không thực hiện. Đặc biệt, từ sau tiết Đại Hàn 5 ngày (bắt đầu từ ngày 21/01 đến hết ngày 03/2
Dương lịch) không cần xem ngày chọn giờ tẩn liệm, động quan và hạ
huyệt, vì các vị thổ thần đang bận rộn đón Xuân (sắp tiết Lập Xuân) cũng như đang lo thủ tục “tống cựu
nghinh tân”.
Nên tiến hành vào ngày có các sao: Minh phệ, Minh phệ đối; Kỵ
các ngày có sao: Nguyệt kiến, Thổ phủ, Kiếp sát, Tai sát, Nguyệt sát, Nguyệt
hình, Nguyệt yếm, Ngũ mộ, Thổ phù, Tứ phế, Địa nang, Phục nhật, Trùng nhật.
Sau khi chọn
được ngày bốc mộ, cũng có thể chọn xem giờ bốc mộ, nhưng phải làm vào
ban đêm hoặc sáng sớm, khi không có ánh sáng mặt trời, tránh cho xương cốt gặp
ánh sáng mặt trời sẽ bị đen, bị hỏng. Thực ra là tránh khi độc bốc lên “ám” vào
người. Nếu buộc phải làm ban ngày có thể che bạt hay bắc “rạp”.
Ngày nay, Lịch Vạn
sự, các phần mềm tính sẵn nhiều có ở các loại Bloc lịch hay trên
Điện thoại thông minh. Có thể dựa vào đó để tra, tránh
các ngày: Trực bình, Thu, Nguyệt kiến, Nguyệt phá, Thổ phủ, Kiếp sát, Tai sát,
Nguyệt sát, Nguyệt hình, Nguyệt yếm, Tứ phế, Ngũ mộ, Phục nhật, Trùng nhật.
Nếu không tính được và tránh để anh em, họ mạc bàn ra tính vào tốt nhất
là nên nhờ thầy, mà thầy bây giờ ở đâu mà chẳng có.
4. Không nên cải táng
Khi có ba điều
là tường thụy (tức là mả phát tốt đẹp) sau :
- Khi đào đất
thấy có con rắn vàng thì cho là Long xà khí vật ;
- Khi mở quan
tài ra thấy có dây tơ hồng quấn quýt thì cho là đất kết ;
- Hơi đất chỗ
đó ấm áp, trong huyệt khô ráo không có nước hay là nước đóng giọt lại như sữa đều
là tốt.
Theo quan niệm
dân gian, đó là «mộ kết », tức là mộ đã thụ được Linh khí của Long mạch, tụ
khí lại trong mộ và làm cho con cháu trong dòng họ đó làm ăn thuận lợi, gia
đình, dòng họ thuận hòa và mạnh khỏe.
Có thể kiểm
tra mộ kết như bằng các phương pháp Cảm xạ, ngoại cảm, cảm nhận trường khí…hay
quan sát bằng mắt thường (ngôi mộ đó càng ngày càng nở ra,, bề mặt mộ cỏ mọc rất
nhanh và xanh tốt, những viên đá, bia mộ bóng loáng lên như được lau chùi bằng
dầu bóng,…). Thông thường kết từ chân lên tới đầu, cũng có vài ngôi mộ do kết cấu
của Long mạch và của mộ sẽ kết theo chiều ngược lại. Có các dạng kết như kết mạng
nhện, kết tơ hồng, kết bang, kết chu sa… Có các màu từ xám đến trắng, hồng, đỏ
như chu sa là loại mạnh nhất.
Gặp trường hợp
đó, phải lập tức lấp lại chứ nếu tiếp tục cải, bốc thì cho kết quả xấu !.
Nếu bắt buộc phải di dời vì lý do nào đó phải có những phương thức của Huyền
môn và Phong thủy rất phức tạp mới có thể di dời.
THÔNG TƯ Số: 02/2009/TT-BYT ngày 26 tháng 5 năm 2009 của Bộ Y tế hướng dẫn
vệ sinh trong hoạt động mai táng và hỏa táng quy định :
Tuỳ theo điều kiện chất đất, phong tục tập quán và tín ngưỡng của từng vùng
mà thời gian cải táng có thể khác nhau nhưng thời gian từ khi chôn đến khi cải
táng không dưới 36 tháng.
Di chuyển thi hài, hài cốt trong trường hợp giải tỏa nghĩa trang mà chưa đủ
thời gian cải táng theo quy định:
a) Khi đào hết lớp đất trên nắp quan tài, tiến hành phun dung dịch hoá chất
diệt khuẩn thuộc danh mục các hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn
dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế đã được đăng ký lưu hành như dung dịch
Cloramin B nồng độ 5% lên mặt trên quan tài, sau 30 phút mới được mở nắp quan
tài.
Trường hợp thi hài chưa phân huỷ hết, phải chuyển thi hài sang quan tài
khác. Việc xử lý thi hài và môi trường xung quanh được tiến hành như việc khâm
liệm đối với người chết đã có hiện tượng thối rữa quy định tại Khoản 2 Mục III
của Thông tư này.
Trường hợp thi hài đã phân huỷ hết thì tiến hành cải táng như các trường hợp
thông thường để di chuyển hài cốt đi nơi khác.
b) Ngay sau khi di chuyển thi hài hoặc hài cốt đi nơi khác phải phun dung dịch
hoá chất diệt khuẩn thuộc danh mục các hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt
khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế đã được đăng ký lưu hành như dung dịch
Cloramin B nồng độ 5% hoặc rắc một lớp vôi bột xuống huyệt mộ.
Ngày nay các địa phương đều đã có nghĩa trang. Do đó việc hung táng hay cát
táng đều được thực hiện tại đây. Mọi lý thuyết về Long huyệt khó
thể áp dụng được một cách chi tiết và nếu lo lắng hay mê tín quá sẽ rối thêm,
nhỡ việc, trái quy tắc văn minh hiện đại, đôi khi mất đoàn kết xóm thôn.. Hơn nữa,
tính linh ứng của kiểu đất bởi “Thiên trợ táng” 天助葬 sẽ hơn hẳn
“Nhân tự táng” 人自葬” và Cát địa âm trạch” đâu phải ai cũng tìm được mà còn do “cơ
duyên” nữa và dù có rồi thì việc “phát” của con cháu còn do gặp “Thời”
và tuỳ “Nhân” nữa. Song để cho an tâm, vững lòng toàn gia nên tìm ngày để
“tránh Hung phùng Cát” 掙凶逢吉 và có thể thực hiện được.
Tìm đất, chọn hướng: ban đầu cổ nhân chú ý cả việc chọn đất làm nhà(dương cơ), dựng
chùa...và đặt mả (âm phần) và cho rằng ”Nhất dương thắng
Thập âm”. Nhưng về sau dương cơ chỉ cốt lấy hướng còn âm phần (nơi an
táng của người thân) thì được quan tâm đến cả vị trí, thế đất, hình thù đám
đất và hướng.
Địa điểm lý tưởng cho nơi đặt mộ là có thế đất
vuông vức, nằm lưng chừng quả đồi giống hình chiếc ghế bành: xung
quanh có Tứ quý che chở: phía sau có Hậu chẩm là
tựa vào Rùa đen (Huyền Quy, thuộc Thủy), trước mặt có Minh
đường là Phượng hoàng đỏ (Chu tước, thuộc Hỏa) thấp hơn
như cái ghế để chân, bên trái có Rồng xanh (tả Thanh Long, thuộc Mộc) nằm
cao hơn, bên phải có Hổ trắng (hữu Bạch Hổ, thuộc Kim) cần
thấp hơn bên trái. Xa hơn về phía sau có tầng tầng lớp núi cao dần,
phía trước có dòng nước chẩy quanh co coi như huyết mạch của đất. Như vậy địa
điểm đặt một lành là phải có đủ “Long (chân), Huyệt (đích),
Sa (bao), Thủy (bọc)” và tránh những đám đất méo mó, trước rộng,
sau hẹp; đất có Bạch Hổ cao hơn Thanh Long hay trực đơn, thoát khí; Minh đường
xung xạ, trực khuynh...
Đặc biệt chú ý chớ có mải mê tìm đất tốt bởi tốt với nhà này, chưa hẳn tốt
với mình vì “Nhất Phúc, Nhì Mệnh, Tam Phong thủy” 一福, 二命, 三風水 mà! Đồng
thời chớ có tin thấy bói rằng “Mộ Tổ nhà X bị Mộ Tổ nhà Y trực chiếu”
hay “cản” mà đang tâm tìm cách yểm bùa, đào, xê dịch mộ nguời hay tìm
cách “khắc chế”, “đấu Phong thủy” theo luật Ngũ Hành (như đắp
núi chế hồ, trồng cây hạn đồi, dùng rào sắt khắc rào tre...). Bởi “mình
phụ ngươì là họa, nguời phụ mình là phúc” nên làm vậy chỉ hại thêm. Đó
còn chưa nói đến việc “thầy” thấp tay không trị được tà ma hay bản thân thầy “hai
mang” càng nguy!. Hơn nữa, tất cả việc xem chỉ là yếu tố “Tâm linh”, để
cháu con yên tâm hoàn tất việc báo hiếu chứ”Xương người chết sao cầu được
Phúc”!. Cốt ở con cháu “Tâm thành tất linh ứng” 心誠必靈應, “Tiên
tích Đức, hậu tầm Long” 先積德後尋龍 và xưa nay “Đức năng thắng số” 德攮勝數 cũng nhiều.
Nhớ lời thầy và tuân theo căn dặn của thân phụ khi còn sống, chúng tôi đã
chấp hành theo nguyên tắc đó, Bố tôi tuổi Quý Hợi, mệnh Khôn - Thổ khi hung
táng vào Thứ Tư 22/01/1997 (tức là ngày 14 tháng Chạp năm Bính Tí) do
ông Kiên (người gốc Tiên Lãng, ở Xuân Quang) đặt mộ hướng Tây Bắc thuộc
hướng Diên niên. Ngôi mộ này phía sau có Hậu chẩm là tựa vào Rùa đen (Huyền
Quy) là dãy đồi nhà anh Mão; trước mặt có Minh đường là Phượng hoàng đỏ thấp
hơn như cái ghế để chân là quả đồi thuộc Cốc Sâm; bên trái có Rồng xanh (tả
Thanh Long) là dãy đồi hồi nhà ông Sơn nằm cao hơn; bên phải có Hổ trắng (hữu
Bạch Hổ) là dãy đồi thấp kế tiếp núi Cốc Sâm. Xa hơn có dòng nước chẩy và
con đường vào xóm coi như huyết mạch của đất. Đến khi thực hiện việc cải táng
di hài thân phụ, tôi giao cho chú Luân chọn một điểm tại Nghĩa trang km36 thôn
An Phong xã Phong Niên và làm việc với Thôn, Xã về việc cấp đất. Sau anh em
đã kiểm tra lại, thấy thoáng đáng, đủ thực hiện được nguyên tắc “chiêu mục”,
tiện đường.
Hướng mộ là
hướng mà khi người nằm dưới đó ngồi dậy nhìn thấy. Theo nguyên tắc ”trần
sao âm vậy” việc chọn hướng cần dựa vào mệnh người nằm dưới mộ và
tránh hướng Tuyệt mệnh, Hoa hại. Khi nhờ cụ Luận (ở Duyên Hải, thị xã Lào Cai) tính, Cụ nói đặt hướng Tây (khi ngồi
dậy nhìn thấy mặt trời lặn), có nghĩa là đầu quay hướng Đông. Theo Thuật
Phong Thuỷ thì đây là hướng Mão là hướng thành công và phồn
vinh. Tôi đã thực hiện đúng vì khi tự nghiên cứu thấy đó là hướng Thiên y,
hơi chệch lên Bắc sẽ là Diên niên, ghé xuống Nam sẽ là Phúc đức đều là hướng
lành với tuổi Cha.
Trường hợp các gia đình quy tập mộ người thân trong
một khu thì việc xác định hướng là theo mệnh của người gia trưởng, những thành
viên khác sắp xếp theo thứ tự ”Tả chiêu hữu mục” 左昭右穆: các đời
lẻ về bên tay Trái - hướng Đông, đời chẵn về bên Phải-hướng Tây.
Trong bàn đồ thờ Cửu Huyền Thất Tổ cũng sắp xếp Bài vị hay ảnh theo nguyên tắc
này. Dịp này gia đình thống nhất đưa mộ bà Nội tôi (mất ngày
22/12/1982, cải táng năm 1986, đặt ngay cạnh mỏm đá, gần giữa cửa nhà gia đình
tôi trong xóm) ra. Vì qui tập nên phải theo cùng hướng với mộ thân phụ tôi,
đặt ở bên tay Trái mộ này.
Dù đã tìm được Cát địa nhưng nếu chôn nhầm ngày thì coi như “đem thi thể vứt
đi” chứ đâu phải mai táng nên hậu quả khôn lường. Do vậy việc tính ngày giờ
trong chôn cất (hung táng) và khi cải
mộ (cát táng) rất quan trọng. Chưa biết
hiệu quả thế nào nhưng cứ để cho lòng người vững là tốt.
Ngày nay, đất
chật người đông, diện tích đất dành cho người chết cũng rất hạn chế. Thường ở địa
phương sẽ tiến hành bố trí cho gia đình một huyệt đất mới ở cùng nghĩa trang
nơi hung táng. Đối với gia đình phải bắt buộc chôn khi địa phương an bài hoặc
có sự chọn lựa trong khu vực đó thì làm như sau:
- Đất chọn huyệt
mộ là nơi đất mới chưa từng bị chôn lấp, đào xới là tốt nhất. Khí đất của huyệt
tươi tốt, đất rắn chắc tươi tắn. Nếu là vùng đồng bằng thì đất tươi mịn, có mùi
thơm, đào lên phía dưới độ 6,70cm đất đặc quánh, có màu vàng nhạt hoặc màu nâu
đậm hoặc nên cùng mầu với đất khu vực bản địa. Nếu là miền sơn cước thì đất mịn
màng, tuy khô nhưng có màu vàng nhạt “nhưng không được quá khô”.
- Kỵ nhất là
huyệt đào là nơi đất tơi xốp khô quá, “không tốt cho xương” hoặc đào lên ở đáy
huyệt nếu có mạch nước ngầm chảy xiết dưới huyệt “lâu dài rất dễ trôi mất tiểu
mất mộ” trừ khi dòng nước đó được xác định là “tụ huyệt long thủy lộ” nếu đào
có nước ít thì tốt nhưng không được chảy xiết và màu sắc của nước trong, mùi
thơm, tránh nước có mùi tanh nồng mùi hôi hoặc mùi khó ngửi. Những huyệt ở đồng
bằng thì nên có ít nước ở dưới huyệt, hoặc kị chôn đè lên huyệt cũ của người
khác “nếu phải chôn thì chỉ chôn bên cạnh”.
- Ở các vùng
nghĩa trang nơi quy tập nhiều mộ, thường bị tình trạng quá tải về diện tích,
các mộ chen lấn nhau. Tránh huyệt bị các mộ xung quanh lấn chiếm trước mộ đè
lên mộ, hoặc các góc mộ khác chọc vào ngay trước phần mộ, hoặc đâm xuyên vào 2
bên cạnh mộ. Nếu chọn được huyệt phía trước rộng thoáng, lại nhìn ra ao hồ hay
sông suối là đẹp nhất. Trường hợp đất đai quá hiếm không chọn được huyệt có
phía trước thoáng rộng thì tối thiểu cũng phải có một khoảng đất trống nằm ngay
phía trước huyệt mộ.
- Quan sát cẩn
thận hệ thống đường đi xung quanh huyệt. Nếu huyệt có đường đi đâm thẳng vào giữa
hoặc đâm xuyên sang hai bên thì chủ về phá bại không thể dùng. Đường đi sát
ngay phía sau huyệt cũng tối kỵ. Tốt nhất chọn huyệt nơi yên tĩnh xa cách với
đường đi lối lại quanh khu vực mộ.
- Ở vùng núi
non thì cần thẩm định huyệt theo những tiêu chí của địa lý. Huyệt tìm được những
nơi được bao bọc có long hổ hai bên ôm lấy huyệt, phía sau có cao sơn che chắn,
phía trước có minh đường thuỷ tụ thì tốt. Sau khi chọn được đất tiến hành xây cất
trước khi xây cất ta cũng làm lễ và chọn ngày giờ cẩn thận.
6. Xem ngày và chọn giờ:
Điều quan trọng nhất trong ngày giờ mai táng là tránh các ngày mà có các
sao sau chiếu Thiên cương, Thọ tử, Đại hao, Tử khí, Quan phù (xấu trong mọi
việc lớn), Băng tiêu ngoạ giải (kiêng làm nhà và mọi việc lớn), Thổ
cấm (kiêng động thổ), Trùng tang, Trùng phục (kỵ hôn nhân, mai táng,
cải táng).
Ngày KIÊNG ĐÀO HUYỆT, MAI TÁNG theo tháng âm lịch:
GIÊNG
|
HAI
|
BA
|
TƯ
|
NĂM
|
SAÚ
|
BÂỶ
|
TÁM
|
CHÍN
|
MƯỜI
|
M. MỘT
|
CHẠP
|
Tị
|
Tý
|
Mùi
|
Dần
|
Dậu
|
Thìn
|
Hợi
|
Ngọ
|
Sửu
|
Thân
|
Mão
|
Tuất
|
Tuất
|
Thìn
|
Hợi
|
Tị
|
Tý
|
Ngọ
|
Sửu
|
Mùi
|
Dần
|
Thân
|
Mão
|
Dậu
|
Ngọ
|
Mùi
|
Thân
|
Dậu
|
Tuất
|
Hợi
|
Tý
|
Sửu
|
Dần
|
Mão
|
Thìn
|
Tị
|
Tị
|
Tý
|
Sửu
|
Thân
|
Mão
|
Tuất
|
Hợi
|
Ngọ
|
Mùi
|
Dần
|
Dậu
|
Thìn
|
Hợi
|
Hợi
|
Hợi
|
Dần
|
Dần
|
Dần
|
Tị
|
Tị
|
Tị
|
Thân
|
Thân
|
Thân
|
Giáp
|
Ất
|
Mậu
|
Bính
|
Đinh
|
Kỷ
|
Canh
|
Tân
|
Kỷ
|
Nhâm
|
Quý
|
Mậu
|
Canh
|
Tân
|
Kỷ
|
Nhâm
|
Quý
|
Mậu
|
Giáp
|
Ất
|
Kỷ
|
Bính
|
Đinh
|
Mậu
|
Ngoài ra, các
ngày đại kị động thổ an táng là ngày gặp sao: Thái Tuế, Tuế Phá, Kiếp Sát, Diệt Sát, Tuế Sát, Ngũ Hoàng, Nguyệt Kiến,
Nguyệt Phá, Nguyệt Yếm, Tứ Ly, tứ Tuyệt.
Để minh chứng
cho diễn giải trên tôi ghi lại việc tính ngày giờ chuyển mộ của cô ruột tôi (Lương Thị Thị) và cải táng cho cháu nội
của bà (Nguyễn Văn Toàn). Anh chị tôi (Thanh-Đê)
đã đi xem và theo cách tính đã lý giải trên, tôi yêu cầu anh Thanh thực hiện
như sau:
Anh Nguyễn Văn
Thanh sinh năm 1949. Suy ra tuổi Can Chi là Kỷ Sửu. Tam tai vào các năm Hợi,
Tý, Sửu như vậy năm nay, Đinh Hợi 2007 phạm Tam tai. Nhưng tuổi 58 vào cung Kiết, không gặp Hoang ốc và
tuổi 58 cũng không phải Kim lâu (57, 59) nên năm nay vẫn tiến hành việc cải
táng cho con, chuyển mộ cho mẹ được.
Ngày 18 và
19/11 không phải ngày Thọ tử, Sát chủ, Vãng vong, Trùng tang, Trùng phục, được
sao quý (Trực Khai, Thanh Long) phù
trợ nên thực hiện được việc cải táng :
Chiều 18/11
Đinh Hợi (27/12/2007) cúng tại nhà, tại
nơi sẽ đặt mộ mới và tại mả cũ.
Việc động thổ
được tiến hành vào giờ Hợi (21-23 giờ)
ngày 18 và đào tiếp trong giờ Mậu Tý (nửa
đêm); Từ giờ Kỉ Sửu (1-3 giờ) đêm
19/11 thực hiện việc nhặt xương, lau rửa, xếp vào tiểu đồng thời cho đào và đưa
tiểu của bà ra nơi mới, đặt xuống nơi an nghỉ, lấp đất, cát, xây móng, bao mộ.
Sau đó nghỉ, từ 7 giờ sáng (giờ Thìn)
sẽ bắt đầu việc xây 2 mộ. Công việc suôn
sẻ.
7. Kiến trúc: chép việc tạo, xây
mộ cho Bà, bố đẻ tôi Cát táng ngày 20/12/2001 (tức 06 tháng Một Tân Tỵ).
Chung : Không phô trương cầu kỳ, nhưng không tủn mủn kiểu nhà neo và hoa hoè kiểu
trọc phú, cần phù hợp, hài hòa với xung quanh.
Được Mẹ đồng ý, lúc đầu tôi định đưa cả hài cốt vợ chồng Chú Thím Rật-Bính
về đây nhưng chị em Dưỡng - Tràng chưa thống nhất được, nên tôi không dám ép,
chỉ tính cả phần đất mai kia giành cho mẫu thân.
Phần Lương tộc chi mộ này có kích thước 4, 5 x 3 m
được xây tường bao, đầu các ngôi mộ quay hướng Đông (hướng Mão). Mộ Đệ
Ngũ Tổ Tỉ xây mái nhọn trên có gắn Rồng chầu mặt nguyệt, tấm dựng gắn ảnh (chụp
1982). Mộ đệ Lục Đại Tổ mái uốn vòm, tấm dựng gắn ảnh, hai bên có đôi câu đối
khắc trên đá của LĐM :
CÔNG CAO MỞ ĐẤT LƯU HẬU THẾ;
ĐỨC CẢ RÈN CON RẠNG TỔ TÔNG.
Chính giữa tường phía sau có bàn thờ với bức hoành phí gồm cả chữ Nho 克昌厥後 (KHẮC
XƯƠNG QUYẾT HẬU) và dịch nghĩa: (Thịnh vượng cho đời sau).
Sau này, vào ngày 25/12/2009 (tức là ngày 10/11 Kỷ Sửu), có nhà xây
mộ xung đối với mộ Cha, tôi đã cho bịt cửa giữa và mở cửa nách để vào mà không
làm các động tác “đôi co” hay “đấu phong thủy” như có người từng khuyên!. Tại cửa
chính vừa xây kín phía trên ghép bức bằng đá khắc chữ Việt chữ Hán: “LƯƠNG TỘC
CHI MỘ (Đệ Ngũ và Đệ Lục đại), 阴德不忘 ÂM ĐỨC BẤT VONG” và hai bên đặt đôi
câu đối chữ Việt:
PHÙ HỘ VỮNG BỀN MIÊU DUỆ;
NGUYỆN CẦU VĨNH VIỄN ÂM PHẦN.
Chọn mầu gạch: Xưa kia khi cải sẽ đắp mộ tròn. Sau này xây hình dài hoặc tròn tùy gia chủ
nhưng đa phần dài. Hiện nay việc quét vôi các ngôi mộ xây đã giảm, đa phần là ốp
gạch. Việc chọn mầu gạch cũng theo nguyên tắc sinh vượng của Ngũ hành, Bát
quái. Khi xây mộ phụ thân, tôi chọn gạch ốp là mầu Hồng (sinh vượng cho
mệnh Thổ).
Khi xây mộ cải
táng ngoài kích thước mộ cải táng chúng ta cần phải quan tâm đến kích thước
huyệt mộ và kích thước tiểu quách phụ thuộc vào diện tích đặt mộ với số đo hợp
phong thủy. Ví dụ (tính bằng cm), theo
thước Lỗ Ban:
69 x 107 : Ứng
với số đỏ ở thước lỗ ban : Thêm đinh – quý tử
81 x 127: Ứng
với số đỏ ở thước lỗ ban: Tài vượng – Tiến Bảo
89 x 147: Ứng
với số đỏ ở thước lỗ ban: Thêm Phúc – Thêm Đinh
107 x 167: Ứng
với số đỏ ở thước lỗ ban: Quý Tử – Thêm Phúc
107 x 176: Ứng
với số đỏ ở thước lỗ ban: Quý Tử – Phú Quý
8.1.Chuẩn bị tiểu
quách
- Tùy theo
hoàn cảnh kinh tế của từng gia đình mà chúng ta chọn Tiểu và Quách bằng nhiều vật
liệu khác nhau như sành, sứ, xi măng, gỗ... Đây là chặng cuối cùng làm cho người
thân, nên các gia đình cũng cần tìm hiểu kỹ các nhà cung cấp để mua được tiểu
quách chất lượng và phù hợp.
- Hiện nay
trên thị trường có quá nhiều nhà cung cấp các loại tiểu quách và giá cả cũng
không đồng nhất. Nhiều khi mua đắt tiền nhưng chưa chắc đã được hàng chất lượng
hoặc có những gia đình mua những loại rất bình thường ở cửa hàng này nhưng giá
lại cao bằng hàng khá tốt cửa hàng khác...
*Đồ vật đặt
vào tiểu quách:
- Giấy trang
kim; Vải bọc cốt; Vải bọc tiểu; Ngũ vị hương
- Tiền cổ - đồng
trinh; Thất bảo ; Tiền vàng âm phủ, tiền lẻ mới hiện tại ;
- Hoa cúc khô,
hoặc hoa nhài khô
- Đá thạch anh
trắng trải dưới mộ, đá thạch anh ngũ sắc chèn quanh tiểu và trải một ít xuống mộ.
* Đồ
dùng, vật dụng khác phục vụ việc cải, cát táng tùy theo khả năng của
gia đình như sau: 1 vuông vải điều, 20 tờ trang kim, 50 lít nước Vang, 2 lít rượu
(trắng), 10 khăn mặt mới, 2 bàn chải lớn, 1 bàn chải nhỏ, 3 chiếc chậu to, 50kg
củi khô, bạt, màn che mưa, gió, dầu hỏa (xua
ruồi nhặng),…
8.2. Trước hôm cải táng làm lễ
cáo từ đường với Văn khấn cúng như sau:
– Con kính lạy chín phương Trời, năm phương Đất,
Chư phật mười phương.
– Con kính lạy
Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương.
– Con kính lạy
ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân.
– Con kính lạy
chư gia tiên Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ tỷ.
Hôm nay là
ngày....tháng.....năm..., tại tỉnh.....huyện.....xã .....thôn..... Hiển khảo
(hoặc hiển tỷ).............................................mộ tiền.
Than rằng:
Thương xót cha
(hay mẹ) xưa, vắng xa trần thế.
Thác về, sống
gửi, đất ba thước phải vùi chôn.
Phách lạc hồn
bay, hình trăm năm khó gìn để.
Lúc trước việc
nhà bối rối, đặt để còn chưa hợp hướng phương.
Tới nay, tìm đất
tốt lành, sửa sang lại, cầu an hình thể.
Rày thân: Phần
mộ dời xong, lễ Ngu kính tế.
Hồn thiêng xin
hưởng, nguyện cầu vĩnh viễn âm phần.
Phúc để di
lưu, phù hộ vững bền miêu duệ.
Từ đây, 2 việc bốc mộ
và sang cát trong cải táng phải đảm bảo diễn ra nhanh chóng, chính xác và liên
tục. Bốc mộ phải thực hiện vào ban đêm tránh ánh sáng chiếu vào xương người đã
khuất gây đen. Mọi thứ phải có người có tay nghề theo sát và hướng dẫn. Có thể
xử lý mọi việc bất ngờ xảy đến.
8.3. Tại nơi bốc
hài cốt ngoài nghĩa trang cũng phải có một cái lễ trình Quan Thần Linh.
Thông thường là một bộ đồ Quan Thần Linh (áo
, mũ , ủng), ngựa và 1000 vàng hoa màu đỏ, giấy tiền vàng bạc, trầu cau, rượu,
thuốc, đèn nến, gạo muối. Nhiều nhà còn cúng Tam sên (trứng vịt luộc + Thịt lơn luộc và một nhúm tôm khô bóc vỏ), xôi, gà
trống luộc nguyên con …với Văn khấn Văn khấn cúng :
Nam mô A Di Đà
Phật! Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật!
- Con lạy chín
phương Trời, năm phương Đất, Chư phật mười phương
- Con kính lạy
Đức Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy
các ngài Long Mạch, Sơn Thần, Thổ địa, Thần linh cai quản trong xứ này.
Hôm nay là
ngày......tháng.....năm...... Tín chủ (chúng) con là:..........................
Ngụ tại......................................................
Chúng con cùng
toàn thể gia quyến tuân theo nghi lễ sắn sửa hương hoa lễ vật dâng bầy lên trước
án, kính mời chư vị Tôn Thần lai lâm chiếu giám.
Tình cớ chỉ vì
gia đình chúng con có ngôi mộ của (đọc tên và địa chỉ của người quá cố) táng tại
xứ này, nay muốn cải táng bốc mộ vì vậy chúng con kính cáo đấng thần linh, Thổ
Công, Thổ Phủ Long Mạch, tiền Chu Tước, hậu Huyền Vũ, tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ
và liệt vị Tôn Thần cai quản ở nghĩa trang này. Thiết nghĩ các ngài tuân chỉ Ngọc
Hoàng thượng đế chấn giữ một phương tiều trừ tà tinh ác quỷ, phù hộ muôn dân,
hun đúc thần phong linh khí, đức lớn công cao, nhân từ hiếu sinh.
Nay xin thương
xót tín chủ chúng con giáng lâm trước án thụ hưởng lễ vật và cho phép gia quyến
chúng con bốc mộ của vong linh (tên người
đã khuất) vào giờ….ngày…..tháng…..năm…..
Tín chủ thành
tâm bái tạ Minh Thần, xin phù hộ cho công việc cải cát được tốt đẹp.
Lòng thành
kính cẩn, lễ bạc tâm thành, lượng cả xét soi, cúi xin chứng giám!
8.4. Ðến hôm cải táng, lại làm lễ
khấn thổ công chỗ để mả mới táng và khấn
rằng:
- Con lạy chín
phương Trời, năm phương Đất, Chư phật mười phương .
- Con kính lạy
Đức Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy
các ngài Long Mạch, Sơn Thần, Thổ địa, Thần linh cai quản trong xứ này.
Hôm nay là
ngày......tháng.....năm...... Tín chủ (chúng) con là:..........................
Ngụ tại......................................................
Gia đình chúng
con có táng (Tên vong
............................ húy .... hiệu ....) thọ chung ngày (ngày mất)
ở khu đất này, kính dâng lễ vật (...........) lễ nghi các thứ.
Thiết nghĩ :
Đất có dữ có
lành, Đều do họa phúc
Kết phát dựa
vào âm đức, Cũng nhờ thần lực hiển linh
Ấy thực thường
tình, Xiết bao cảm cách.
Những mong mồ
yên mả đẹp.
Vậy dâng lễ bạc
tâm thành, Nhờ ơn đại đức, Thấu nỗi u tình
Khiến cho vong
linh, Được yên nơi chín suối
Phù hộ dương
trần con cháu nội, ngoại bình yên.
Chúng con lễ bạc
tâm thành cúi xin được phù hộ độ trì
8.5. Sau đó tuần tự thực hiện các bước:
- Khi ván
Thiên (ván đậy trên nắp quan tài) được
cậy ra, người ta phải đổ vài chai rượu có nồng độ cao vào quan tài để tảy rửa
âm khí. Sau đó, mới tiến hành lấy cốt, nhiều khi gặp trường hợp hài cốt chưa
phân hủy hết mà không có thuốc tiêu thịt thì phải dùng xăng đổ vào mộ và đốt
cháy thịt còn sót, sau đó phải dùng dao dóc những mảnh thịt còn lại và đem rửa
bằng nước vang hoặc mang toàn bộ đi đến nhà tang lễ để hỏa táng. Còn quan tài cũ nát thì
bỏ đi, tốt thì đem về dùng hoặc làm cầu, hoặc làm chuồng trâu chuồng ngựa, để
trâu ngựa đứng cho khỏi sâu chân. Dân gian tin rằng: Hễ ai đau tức thì lấy mảnh
ván thôi (mảnh ván quan tài nát) đốt lên, để gầm giường mà nằm thì khỏi
đau tức.
- Mọi thứ xương phải kiểm tra cho đủ, không được
phép thiếu, có một cách mà dân gian thường sử dụng để kiểm tra đó là: sau khi “đãi
cốt” xong, người ta thường cắm một bó hương to giữa lòng đáy huyệt, nếu làn
khói quyện lại, bay thẳng lên có nghĩa đã hết cốt, nếu làn khói tỏa xuống, lởn
vởn trong lòng huyệt có nghĩa là xương cốt của người chết chưa hết, cần phải kiểm
tra lại.
- Dùng nước
Vang để lau rửa sạch xương cốt và tiểu quách, dùng vải sạch thấm khô Cốt.
- Xếp các đồng
tiền cổ (đồng trinh) vào trong đáy tiểu
- Trải giấy
trang kim kín trong lòng tiểu (dán kín giấy
trang kim toàn bộ các mặt trong lòng tiểu), để lại khoảng 2-5 tờ trang kim
về sau trải lên trên. Để mặt kim quay vào trong long tiểu.
- Trải vải áo
bọc cốt lên trang kim, để mở rộng ra sau đó xếp Xương Cốt thành hình lên vải
áo. Có thể dùng một mảnh vải gấp lại để kê dưới xương sọ cho mặt hướng lên
trên. Lưu ý phân biệt đầu và chân Tiểu, thường đầu có hình Thọ tròn còn chân có
hình Thọ vuông.
- Để thất bảo
và lá vàng, bạc vào cùng xương cốt, rồi gấp vải áo lại, để hở mặt của cốt.
- Đóng nắp Tiểu
lại, trùm tấm vải gấm thêu hoa lên Tiểu rồi đặt vào trong Quách. Đặt theo đúng
chiều đầu và chân của Quách.
- Sử dụng các
nêm gỗ đã chuẩn bị sẵn để cố định chắc chắn Tiểu trong Quách.
- Cho đá thạch
anh ngũ sắc vào quanh tiểu, khe giữa tiểu và quách. Có thể bớt lại 1/3 số đá Thạch
Anh để về sau cho vào trong Huyệt trước khi lấp đất.
- Cuối cùng
cho hoa cúc khô hoặc nhài khô lên trên rồi đóng nắp Quách lại.
9. Đặt và xây mộ :
9.1. Đến giờ tốt
đã chọn, đem tiểu chôn tại khu huyệt mộ mới sau khi hoàn thành thường
thì sẽ tiến hành xây mộ, làm lễ tạ mộ và hàn long mạch
9.2.Lễ tạ
mộ mới xây: với lễ phẩm gồm :
- Hương thơm,
Hoa tươi (hoa hồng đỏ): 10 bông. Trầu: 3 lá, Cau: 3 quả cành dài đẹp.
- Trái cây: 1
mâm to.
- Xôi trắng: 1
mâm bên trên bày gà luộc nguyên con (thường
chọn giò hoặc là trống thiến).
- Rượu trắng:
0,5 lít + Chén đựng rượu: 5 cái 10 lon bia + 2 bao thuốc lá + 2 gói chè (1 lạng/gói)
2 nến cốc màu đỏ dùng để thắp khi làm lễ.
- Phần mã : -
1 cây vàng hoa đỏ. - 5 con ngựa 5 màu (đỏ,
xanh, trắng, vàng, chàm, tím) cùng với 5 bộ mũ, áo, hia (loại to) cùng với đồ kèm theo ngựa là cờ
lệnh, kiếm, roi. Mỗi ngựa trên lưng có 10 lễ vàng tiền (gồm có tiền xu, vàng lá, tiền âm phủ các loại...).
- Có 4 đĩa để
tiền vàng riêng
9.3. Văn
khấn tạ mộ:
Con kính lạy:
– Quan đương xứ thổ địa chính thần – Thổ địa Ngũ phương Long mạch Tôn thần, –
Tiền thần Chu Tước, Hậu thần Huyền Vũ, Tả thần Thanh Long, Hữu thần Bạch Hổ –
Liệt vị Tôn thần cai quản ở xứ này.
Con kính lạy vong
linh... Hôm nay là ngày…tháng…năm…, nhằm tiết ….. Chúng con là:...
Thành tâm sắm
sanh phẩm vật, hương hoa phù tửu lễ nghi, trình cáo Chư vị Tôn Thần về việc lễ
tạ mộ phần.
Nguyên có vong
linh thân nhân của gia đình chúng con là:... hiện phần mộ an táng ở nơi này.
Đội ơn Chư vị
Tôn thần che chở, ban ân, vong linh được yên ổn vui tươi nơi chín suối. Lại nhờ
có duyên lành, gia đình chúng con được vong linh thường về ghé thăm, linh ứng
giúp chỉ dẫn các công các việc được đầu xuôi đuôi lọt, nhờ thế toàn gia được an
ninh khang thái, từng bước tiến bộ.
Nay nhằm ngày
lành tháng tốt, gia đình chúng con sắm sửa lễ tạ mộ những mong báo đáp ân thâm,
tỏ lòng hiếu kính.
Cúi xin Chư vị
Tôn Thần lai giáng án tiền, nhận hưởng lễ vật, chứng minh tâm đức.
Cúi mong vong
linh chấp kỳ lễ bạc, lời kêu tiếng khấn, tờ đơn cánh sớ, tùy phương ứng biến, độ
trì toàn gia, từ trẻ tới già, luôn được vui tươi, mạnh khỏe.
Chúng con dâng biếu vong
linh tài mã gồm : ….(đọc tên các đồ mã
dâng cho vong) Âm dương cách trở, bát nước nén hương, giãi tấm lòng thành,
cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo !!!.
Sau khi hoàn tất việc cải táng, trong
các buổi cúng giỗ tiếng gọi Cha (out of the time of mourning) khi khấn là
“hiển khảo” 顯考, Mẹ là “hiển tỉ” 顯妣.
Chưa hết tang, gọi Cha (in the time of
mourning) là “cố phụ” 故父. Khi
đó, con Trai mất Cha tự xưng là “cô Tử”
孤子, con Gái xưng “cô
Nữ” 孤女, con Trai mất Mẹ xưng
là “ai Tử” 哀子, con Gái xưng “ai
Nữ” 哀女, con Trai mất cả
Cha và Mẹ xưng “cô ai Tử” 孤哀子, con gái xưng “cô
ai Nữ” 孤哀女…
Khi cải táng di
hài thân phụ, theo lời “thầy”, gia đình tôi tiến hành theo quy trình: ngày 20 tháng
12 năm 2001: 11 giờ 30 khởi móng xây mộ mới, 18 giờ bật ván thiên, 19 giờ tắm rửa
xong: xương sạch, vàng đẹp; 20 giờ hạ Tiểu xuống mộ mới. Ngày hôm sau xây tiếp
phần trên mặt đất. Đúng trưa ngày 22/12/2001, tức ngày 08 tháng Một năm Tân Tị,
kỷ niệm 19 năm ngày Giỗ Nội Tổ mẫu 內祖妣khánh thành. Vẹn mọi đường, vừa trang trọng, vừa đỡ công
đi lại của con cháu và khách mời ở xa! Nói thêm rằng,
năm đó tôi tiến hành mấy việc lớn liền: xây nhà trên 328 Hoàng Liên, Con gái
thi Tốt nghiệp Cấp 3 và thi vào Đại học. Ai cũng lo cho tôi, kể cả một số người
mà nhân gian gọi bằng “thầy”! Thế mà trọn vẹn cả!
Sau khi hoàn thành có gắn bia có ảnh, họ
tên, năm sinh, năm mất và có thể có câu đối. Đồng thời săn sóc mộ phần chu đáo,
nhất là dịp Lễ Tết, Thanh minh, Cúng Giỗ...
Gia
đình tôi mỗi bận có việc lớn, như con cái thi, nhập học, đỗ đạt, gả chống,
cưới vợ, lên chức, thăng cấp...ngoài việc yết cáo tại Ban thờ, chúng tôi đều dẫn
ra mộ kính cáo với vong linh Bà và Bố tôi.
-Lương
Đức Mến, cuối tháng 9 Tân Sửu-
Nhấn vào đây để đọc toàn văn...
Tóm tắt ...