(Có sử dụng ảnh và tư liệu của Bác sĩ Nguyễn Vân
Sáu, nguyên Chánh Văn phòng HVQY, trong những ngày chuẩn bị Hội Khóa 69 ĐHQY tại
Đảo Ngọc và thăm quan K9)
Thầy tôi, Giáo sư Bác sĩ
Đỗ Xuân Hợp sinh ngày 8 tháng 7 năm 1906, mất ngày 17 tháng 12 năm 1985; là
một thầy thuốc, một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam (phong thiếu tướng năm 1985); Giáo sư là
Đại biểu Quốc hội từ khoá II đến khóa VII; Uỷ viên Thường vụ Quốc hội khoá IV,
Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Y tế xã hội của Quốc hội khoá VI; Uỷ viên Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam khoá III, Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thành phố
Hà Nội khoá IV, Uỷ viên Liên minh Quốc hội thế giới của Việt Nam; Uỷ viên Trung
ương Đảng Xã hội Việt Nam (sáng lập), Bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Xã hội Việt Nam
Thành phố Hà Nội; Giáo sư là Anh hùng LLVTND.
Ông là con thứ năm của cụ Đỗ Xuân Đạt - một
gia đình nghèo có truyền thống hiếu học và yêu nước ở phố Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Khi cụ Lương Văn Can cùng những chí sĩ yêu nước lập ra trường Đông Kinh Nghĩa
Thục thì cụ Đạt dù không ra dạy, nhưng vẫn bí mật giúp đỡ tài chính cho trường.
Ngay từ nhỏ, cụ Đỗ
Xuân Hợp đã nổi tiếng là cậu học trò giỏi nhất trường. Khi đậu ưu kỳ thi Tiểu học thì phần thưởng là những cuốn sách đã được ông chất đầy trong một tủ
lớn! Sau này theo học trường Bưởi, ông cũng là học sinh giỏi, chăm chỉ và khiêm
tốn giúp bạn học kém hơn mình. Mỗi tháng được nhận học bổng 8 đồng, ông dùng để
nuôi hai em tiếp tục ăn học như mình.
Tốt nghiệp trung học với bằng Thành chung loại Uu,
ông theo học trường Cao đẳng y dược Đông
Dương (médecin indochinois) đến năm
1929.
Lúc này tình yêu đến với ông. Người yêu là bà Nguyễn Thị Thịnh - một nữ sinh trường Sư Phạm Hà Nội. Khi
nên duyên thì người vợ đã cùng chồng lên đường nhận nhiệm sở. Là Y sĩ, Đỗ
Xuân Hợp được phân công về nơi rừng thiêng nước độc ở Bắc Hà (Lào Cai) và gắn bó với nơi heo hút này 3 năm liền (1929-1932).
Trở về Hà Nội, ông theo học
trường Y khoa Đông Dương. Nếu Bác sĩ Hồ Đắc Di là người Việt Nam đầu tiên
tốt nghiệp bác sĩ phẫu thuật tại Pháp thì Đỗ Xuân Hợp là người đầu tiên trợ
giảng và hướng dẫn cho sinh viên thực tập trong khoa phẫu thuật của trường Y
khoa Đông Dương. Từ năm 1934, y sĩ Đỗ Xuân Hợp bắt đầu làm việc với tư cách là
trợ lý giải phẫu cho GS Pierre Huard, Giám đốc Viện Giải phẫu, Hiệu trưởng Đại
học Y Hà Nội.
Năm 1942, ông cùng với thầy giáo của mình - GS Pierre Huard hoàn
thành và cho xuất bản cuốn sách
tiếng Pháp Morphologie humaine et anatomie artistique (Hình thái học nhân thể và giải phẫu học nghệ thuật). Ngay sau khi
ra đời, cuốn sách đã tạo ra một tiếng vang lớn trên các diễn đàn y học thế giới
lúc bấy giờ. Cuốn sách trở thành tài liệu tham khảo cơ bản, gối đầu giường cho
nhiều nhà nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khác nhau như y học, mỹ thuật, nhân
chủng học, khảo cổ học...
Ngay trong năm đó, ông có công trình nghiên cứu khoa học đầu
tiên về lĩnh vực giải phẫu. Cùng năm 1944, ông
bảo vệ thành công luận án bác sĩ y khoa “Recherches sur le système osseux
des Annamites” (Nghiên cứu bộ xương của người Việt Nam), trở thành bác sĩ chuyên khoa Giải phẫu học đầu tiên của
nước ta. Tính từ 1942 đến năm 1944, ông công bố 88 công trình trên các
tạp chí, chuyên san y học của Pháp.
1932-1945, ông là Giảng
viên Trường Y dược Đông Dương.
Khi Cách mạng Tháng Tám
thành công, nghe theo tiếng gọi của Đảng và Bác Hồ, ông đã hăng say đem khả
năng chuyên môn cống hiến cho cách mạng, tích cực tham gia hoạt động của các tổ
chức xã hội: ngày 27/3/1946 Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp làm Chủ tịch cơ quan Cứu tế xã
hội Bắc bộ, kiêm chức Giám đốc Nha Cứu tế Trung ương, Bộ Xã hội. Ngày 28 tháng
6 năm 1946, Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp xin từ chức Giám đốc Nha Cứu tế Trung ương, được
chấp thuận vào ngày 14 tháng 9 năm 1946 (thay
thế là Nguyễn Hữu Viên, Chánh Văn phòng Bộ Xã hội từ 27/3/1946) và ông được
bầu là Chủ tịch Hội Cứu đói toàn quốc, Chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến
khu phố Chợ Hôm, Chủ tịch Hội Hồng thập tự,...
Khi toàn quốc kháng chiến
nổ ra thì Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp bỏ lại sau lưng căn Biệt thự số 69 phố Trần Xuân
Soạn ở Hà Nội, bỏ lại những tiện nghi vật chất để lên đường tòng quân vì Tổ
quốc (bấy giờ ông đang giảng dạy ở Đại
Học Y khoa, chữa bệnh ở bệnh viện Phủ Doãn và còn có cả phòng mạch tư ở phố Chợ
Hôm).
Tập sách “Giải phẫu tứ chi và Thực hành y
khoa” được xuất bản năm 1952 tại Việt Bắc (bằng tiếng Việt in trên giấy dó ở chiến khu) là tài liệu chính
giảng dạy trong các trường Y mà còn là cẩm nang quý báu cho cán bộ quân y tham
khảo để phục vụ thương binh ngay tại chiến trường. Với tác phẩm này, ông được
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi và Chính phủ tặng Huân chương Kháng
chiến Hạng ba.
Khi Hòa bình lập lại, Giáo sư, ngoài việc giảng dạy, nghiên cứu
còn từng bước hoàn chỉnh, bổ sung, viết mới thành một bộ sách giải phẫu, bao gồm 4 cuốn: Giải phẫu đại cương, giải phẫu
đầu mặt cổ, Giải phẫu thực dụng ngoại khoa tứ chi, Giải phẫu ngực, Giải phẫu
bụng và chúng được nhiều lần tái bản. Đây là những cuốn sách “gối đầu giường”
của SVYK. Đó là một trong những cống hiến để Bác sĩ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và
kỹ thuật đợt đầu tiên (Giải thưởng Hồ Chí
Minh đợt I do Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký quyết định số 991 KT/CTN ngày
10/9/1996 trao cho 33 công trình, cụm
công trình khoa học công nghệ và 44 cụm tác phẩm thuộc lĩnh vực Văn học – Nghệ
thuật trong đó: Khoa học y - dược 13 giải).
Thầy cũng là người có công “Việt
hóa” các từ Y khoa, đưa tiếng Việt vào giảng dạy trong các trường Đại học…
Tính từ năm 1934 đến năm 1985, tức là từ khi bắt tay vào nghiên
cứu khoa học đến khi rời cõi tạm, GS Đỗ Xuân Hợp đã công bố 125 công trình về
nhân trắc học và hình thái học người Việt Nam.
Ông còn là một trong những người sáng lập ra Đảng Xã hội Việt Nam và ở trong Ban chấp hành Trung
ương Đảng Xã hội từ năm 1946-1985. Trên lĩnh vực chuyên môn, GS Đỗ Xuân Hợp là người
sáng lập ra Hội Hình thái học Việt Nam (27/10/1967)
và giữ chức Chủ tịch kiêm Tổng biên tập của tờ báo Hình thái học liên tục trong
18 năm liền.
GS Đỗ Xuân Hợp là Thiếu tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân
dân và không đứng trong hàng ngũ của
Đảng như chính Bác Hồ nắm tay người bác sĩ chân tình: “Chú Hợp là người
cộng sản không ở trong Đảng”.
Riêng với Quân y:
- Năm 1950-1960, ông là Viện
trưởng Viện Quân y Liên Khu X (đóng
ở Quế Trạo); Hiệu trưởng kiêm Chủ nhiệm Bộ môn giải phẫu Trường Quân y sĩ
Việt Bắc, Trường Sĩ quan quân y (được
thành lập ở cánh rừng Liễn Sơn, xã Hồng Hoa, huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Phú);
Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp nhận thêm nhiệm vụ Chủ nhiệm Bộ môn giải phẫu Đại học Y khoa
Hà Nội do Bác sĩ Hồ Đắc Di làm hiệu trưởng ban đầu (1954-1985). Ngoài sách về Giải phẫu đã dẫn ở trên còn có thể kể đến
những tác phẩm y học ông viết trong thời gian chống Pháp như Triệu chứng học,
Dược học, Thực hành bệnh viện...
-Đầu năm 1950, Bác sĩ thôi giữ chức Viện trưởng Viện Quân y liên
khu X và được cử làm Trưởng phòng Huấn luyện Cục Quân y. Ông
cho thành lập Ban Tu thư và Ấn loát tài liệu, giáo trình của Cục.
- Năm 1951, bác sĩ Nguyễn
Trinh Cơ lúc bấy giờ đang là Hiệu trưởng Trường Quân y sĩ được cử sang Liên Xô
học bổ túc chuyên môn, bác sĩ Đỗ Xuân Hợp được cử làm Hiệu trưởng nhà trường.
Bắt đầu từ đây cho tới lúc nghỉ hưu (năm
1978) gần 30 năm, ông gắn bó với sự nghiệp đào tạo của trường Quân y sĩ (1951-1957), rồi Trường Sĩ quan quân y (1957-1962), Viện Nghiên cứu Y học quân
sự (1962 – 1966), Trường Đại học Quân
y (1966 – 1981) và sau nhiều lần đổi
tên, ngày nay là Học viện Quân y. Thầy là Hiệu trưởng trường này từ tháng 01/1951 đén tháng 3 năm 1979. Đây là quãng thời gian khóa DH9 chúng
tôi học (1974-1981), là khoá đầu tiên
có SV là CAND học bên trường thuộc BQP. Khóa chúng tôi ngày đó mang mật danh 69
ĐHQY có khá nhiều kỷ niệm, ấn tượng với Giáo sư. Khi chúng tôi nhập trường,
giáo sư là Hiệu trưởng và là người giảng bài học đầu tiên về “Chính trị” và
“Giải phẫu” tại Hội trường lớn cho sinh viên toàn Khóa! Chính vì vậy, trong
cuốn KỶ YẾU BÁC SĨ QUÂN Y DÀI HẠN 9 HỌC VIỆN QUÂN Y vừa ra mắt 3/2020 có hẳn 1
trang (T16) viết về Thầy với bức ảnh thầy mặc quân phục “gặp gỡ các Dược sĩ, Bác sĩ trước khi lên đường nhận nhiệm vụ”!
Trước đó chúng tôi đều từng nghe danh, được thụ giảng và ngưỡng
mộ GsBs Đỗ Xuân Hợp. Cụ không chỉ là một cây đại thụ của ngành y Việt Nam và
cũng là cây đại thụ của ngành Giải phẫu học Việt Nam mà còn là cây đại thụ,
người thầy của bao thế hệ Bs Quân y. Vì vậy ngay từ 1955, cùng với 10 nhà Y, Dược
xuất sắc, bác sĩ Đỗ Xuân Hợp được phong hàm Giáo sư đợt đầu tiên của
Việt Nam.
Với cấp hàm Thiếu tướng, Danh hiệu cao quý AHLLVTND (năm 1985) nên Cụ cũng là một trong những
người có cấp hàm cao, vị trí quan trong trong ngành Quan y nhưng lại là người
không có tên trong danh sách đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ông là Phó Chủ tịch Tổng Hội Y học Việt Nam từ khi thành lập;
sáng lập viên và là Chủ tịch Hội Hình thái học Việt Nam (1965-1985)
Ngoài ra, Giáo sư còn
được giải thưởng Testut của Viện Hàn
lâm Y học Pháp năm 1949 về cuốn sách mà ông và thầy Pierre Huard viết từ năm
1942 (một giải thưởng lớn về y học của
Pháp cũng như của ngành giải phẫu quốc tế mà ông là người Việt đầu tiên, người
thứ 10 trên thế giới được nhận nhưng cũng chính ông lại từ chối việc đến Paris
nhận giải thưởng Testut cùng với số tiền thưởng 32000 USD để ở lại phục vụ
kháng chiến. Hơn 30 năm sau (1980) GS Tôn Thất Tùng là người Việt Nam thứ 2
đồng thời là người thứ 10 trên thế giới được nhận giải thưởng cao quý này. Sau
này, khi Tổng thống Pháp Francois Mitterrand sang thăm Việt Nam có gặp vợ cố
Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp. Trong trò chuyện thân mật, bà có nhắc đến chuyện này, điều
chúng ta không ngờ là chỉ thời gian sau, Viện hàn lâm y học Pháp đã gửi đến cho
gia đình cố bác sĩ tấm bằng này).
Trong nước, Giáo sư còn nhận được nhiều phần thưởng: Anh hùng LLVTND,
Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng nhì; Hai Huân chương
Quân công hạng nhất; Huân chương Quân công hạng ba; Huân chương Chiến thắng
hạng nhất; Huân chương Chiến công hạng nhất, hạng ba; Huân chương Kháng chiến
chống Mỹ hạng nhất; Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng nhất, nhì, ba; Huy chương
Quân kỳ Quyết thắng.
Nhưng chính tôi, 1 thành viên của K9 HVQY, sau này mới biết,
người thầy của mình từng 3 năm (1929-1932)
làm việc rất có uy tín tại một huyện
miền núi ở Lào Cai quê tôi, huyện Bắc Hà khi mới là Y sĩ!
Bài viết sau đây trích từ bài “Giáo sư ĐỖ XUÂN HỢP, VỊ ANH HÙNG
QUÂN Y NGOÀI ĐẢNG’ đăng trên http://khampha.vn/.
*
Xuất thân trong một gia
đình trí thức ở Hà Nội và chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền giáo dục Nho học nhưng
Đỗ Xuân Hợp lại sớm chịu tác động của Tây học. Tốt nghiệp Y sĩ Đông Dương năm
1929 được chính quyền Pháp phân công làm Quan Đốc tại Bắc Hà, Lào Cai.
Công việc thường ngày của
ông là buổi sáng khám chữa bệnh cho các bệnh nhân là sĩ quan và binh lính người
Pháp, buổi chiều dành cho nhân dân sở tại. Cũng có khi ông làm việc ở đồn binh
của Pháp.
Không những nhận được cảm
tình của binh lính Pháp, Quan đốc Đỗ Xuân Hợp cũng được người dân yêu mến, tin
tưởng. Quan đốc khám bệnh cho người dân tộc thiểu số không lấy tiền, thường chỉ
lấy tiền thuốc, có nhiều trường hợp bệnh nhân không có tiền ông lại phải bỏ
tiền túi ra cho, hoặc phát thuốc miễn phí.
Cuộc sống ở Bắc Hà tưởng
chừng rất bình yên, vị Quan đốc cũng không nghĩ đến việc sẽ thay đổi nơi làm
việc vì điều kiện sinh hoạt ở đây rất tốt, tình cảm nhân dân và chính quyền
dành cho ông cũng rất trọng vọng thì một biến cố bất ngờ xảy ra. Tháng 2-1932,
một nhóm cướp nổ súng tấn công vào cơ sở y tế nơi Quan Đốc Đỗ Xuân Hợp làm việc
và cướp đi rất nhiều thứ. May mắn lắm vợ chồng ông mới trốn thoát được lưỡi hái
của tử thần. Kể từ đó, ông nhen nhóm ý định xin về Hà Nội để làm việc. Ông bàn
bạc với vợ đăng ký học hàm thụ từ xa để thi lấy bằng tú tài toàn phần.
Những tâm sự của vị Quan
đốc lúc bấy giờ được vợ - bà Nguyễn Thị Thịnh ghi lại trong hồi ký sau này:
“Bây giờ chỉ có cách học, học thêm rồi chờ thời. Trước kia nhà anh nghèo, không
có tiền sang Pháp học. Bây giờ có tiền rồi, anh sẽ học thêm, học hàm thụ ở
trường đại học hàm thụ Pháp ở Paris. Em sẽ cùng học với anh, hai chúng mình thi
đua nhau cho vui, học một mình buồn lắm”.
Được sự động viên của vợ
và có chút tiền do chính quyền bảo hộ bồi thường sau vụ cướp, vị Quan đốc trẻ
tuổi gửi điện sang Pháp mua các tài liệu cần thiết để hai vợ chồng cùng ôn thi
tú tài. Những năm 1930, dưới thời thuộc Pháp, những ai không có điều kiện học
trực tiếp thì có thể học hàm thụ từ xa thông qua con đường bưu điện. Sau nửa
tháng gửi điện sang Paris, Đỗ Xuân Hợp đã nhận được đầy đủ tài liệu hướng dẫn
học.
Đỗ Xuân Hợp cùng vợ dành
thời gian, tập trung ôn luyện. “Chúng tôi học rất nghiêm chỉnh. Sáng anh lên
đồn sớm hơn để trưa về sớm hơn, chiều ở nhà học, góp ý kiến với nhau làm bài.
Đều đều hàng tuần chúng tôi gửi bài sang Paris chấm (gửi mở như các tài liệu
in, rẻ tiền hơn là gửi kín) và đều đều nhận được những bài làm trước của mình
đã được chấm, có điểm, có phê phán tỉ mỉ, kèm theo các bài mẫu hướng dẫn cách
làm hoàn hảo”.
Ít lâu sau, có thông báo
tuyển trợ lý giải phẫu cho trường Đại học Y ở Hà Nội. Đó là thời cơ để ông về
Hà Nội công tác và cũng là ngã rẽ quan trọng bậc nhất trong cuộc đời. Đó là
động lực giúp Đỗ Xuân Hợp cố gắng học tập, không quản khó khăn. Bà Thịnh ghi
lại: “Việc học của anh vất vả quá: vừa đi làm, vừa học thi tú tài, vừa học thi
giải phẫu. Anh học cả chiều, cả tối”.
Sau gần một năm miệt mài
với sách vở, cuối năm 1932, hai vợ chồng trở về Hà Nội để thi tuyển. Bấy giờ,
toàn Đông Dương có 5 người dự thi, trong đó có 2 người Pháp mà chỉ tiêu thì chỉ
lấy có 1. Đỗ Xuân Hợp đỗ đầu và là người duy nhất được nhận vào vị trí trợ lý
giải phẫu cho GS Pierre Huard - Giám đốc Viện Giải phẫu, Hiệu trưởng trường Y
khoa Đông Dương.
Sau khi thi đỗ, vợ chồng
ông từ biệt Bắc Hà trở về Hà Nội bắt đầu một chương mới trong sự nghiệp. Công
việc trợ lý cho GS Pierre Huard diễn ra vào các buổi chiều, còn buổi sáng Đỗ
Xuân Hợp lên Bệnh viện Phủ Doãn (nay là Bệnh viện Việt - Đức) làm trợ lý cho GS
Solier (người Pháp) về chuyên khoa Tai - Mũi - Họng. Vào buổi tối, ông vẫn tiếp
tục học tập theo chương trình hàm thụ ở Pháp để chờ đến kỳ thi tú tài sẽ diễn
ra vào mùa hè năm 1933. Do có chứng nhận của trường đại học hàm thụ Pháp ở
Paris, Đỗ Xuân Hợp và vợ được dự thi tự do và đỗ trong kỳ thi tú tài năm ấy.
-
Lương Đức Mến, BS từ nhiều
nguồn TK-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!