Người đi vỡ đất

23 tháng 5 2011

Về NGUỒN GỐC TỘC DANH của họ Lương

Theo một số thông tin từ các trang Websit của Trung Quốc thì có 3 thuyết và mỗi thuyết lại chia ra nhiều thuyết nhỏ nói về nguồn gốc tộc danh[1] “Lương”:
1. “Xuất tự Doanh tính” 出自贏姓:
Theo Doanh thị tông tộc 嬴氏宗族 thì: Từ viễn cổ 遠古時代 trong một bộ tộc có Cao Đào 皋陶 là một hiền thần giỏi thuần hóa chim thú, từng được vua Vũ (大禹,2205 tCn – 2198 tCn hoặc 2200 tCn - 2100 tCn)có ý định nhường ngôi nhưng sau triều thần bàn để con Vũ là Khải nối ngôi, mở ra chế độ cha truyền con nối. Cao Đào có 3 người con trai. Con thứ là Trọng Chân 仲甄, còn gọi là Trọng Yển 仲偃 làm quan nhà Hạ (,2205–1767 tCn), ăn lộc ấp Yển (vùng Khúc Phụ Tây ngày nay), con cháu sau lấy Yển làm họ, dòng này phát triển mạnh ở An Huy, Sơn Đông. Con trưởng là Bá Ế 伯翳, tức Bá Ích 伯益, làm quan nước Ngu, từng giúp vua Vũ trị thủy có công nên được vua Thuấn (帝舜,mất năm 2181 tCn) ban họ Doanh 嬴姓 là tên ấp ăn lộc, theo dạng “Lấy tên chư hầu hay quý tộc làm họ” 侯君主贵族的字为氏. Đây là một trong 8 dòng họ quý tộc biết đến thời đó. Sau này hậu duệ Bá Ích được phong ấp Tần hợp xưng Doanh Tần. Ông được suy tôn là Triệu tổ Doanh Tần 嬴秦趙之祖 và dòng này phân bố rộng ở vùng Sơn Đông 山東. Chính thị tộc Doanh đã lập nên nước Tần[2] và sau là triều đại Tần nổi tiếng và có công thống nhất Trung Hoa từ thời nhà Chu, mở ra thể chế đế quốc từ đó.
Từ Doanh Tần, con cháu ngày một đông, khi phân phong, áp dụng nguyên tắc “dĩ quốc vi tính” 以國為姓 nên từ Doanh thị 嬴氏 sinh ra Hữu từ thị 有徐氏, Đàm thị 郯氏, Cử thị 莒氏, Chung lê thị 終黎氏, Vận yểm thị 運奄氏,  Thỏ cừu thị 菟裘氏, Tương lương thị 將梁氏, Hoàng thị 黃氏, Giang thị 江氏, Tu ngư thị 修魚氏, Bạch minh thị 白冥氏,  Phỉ liêm thị 蜚廉氏, Tần thị 秦氏.
Họ của gia đình hoàng gia Tần là Doanh 嬴氏. Đến giai đoạn chế độ tập quyền cao, có tông pháp tính danh được lấy làm tộc danh 以姓为氏 thì chỉ ngành trưởng 長族 nối ngôi 繼位 mới mang họ Doanh, còn các ngành thứ mang họ khác. Do vậy từ thị tộc Doanh sinh ra tổ 14 họ 十四姓 hiện nay, gồm: Triệu ,  Mã  ,  Tần , Lương , Giang , Liêm  , Hoàng , Chung ,  Cát ,  Từ  ,  Phí ,  Đàm ,  Cốc , Mâu  , Cù . Ngoài ra còn có các họ khác cũng được cho là khởi từ Doanh thị, như các họ: An , Ích ,  Cốc , Kim , Tô , Anh , Bùi ...
Theo “Danh hiền Thị Tộc Ngôn hành loại cảo名贤氏族言行类稿 của Tuần phủ Giang Tô 江苏 Tống Chương Định 宋章定 soạn thời Tống (宋朝, 960-1279) thì họ Lương thuộc “lấy tên đất làm họ” 原是地名 và khởi từ thị tộc Doanh 嬴氏. Từ “Doanh” sinh ra dòng họ Lương có 2 nguồn chính ở những địa bàn khác nhau, bởi những nguyên cớ khác nhau:
1.1. “Xuất tự Doanh tính, dĩ Quốc vi Thị” 出自贏姓,以國為氏:
Theo “Thông trí-Thị tộc lược-Dĩ Quốc vi Thị通誌氏族略以國為氏 của Trịnh Tiều (郑樵, 11041162soạn thời Tống Cao Tông (宋高宗, 1107-1187) thì vào thời Chu Bình Vương (周平王, 770 tCn-720 tCn) một hậu duệ của Tần Trọng (秦仲, đứng đầu Tần công quốc, 854 tCn-822 tCn) là có công thảo phạt Tây Nhung 西戎 được nhà Chu nhường đất Lương Sơn, Hạ Dương 夏陽梁山 (nay là Hàn Thành, Thiểm Tây, 陜西省韓城縣南) cho người con thứ là Khang lập quốc xưng Lương Khang Bá. Đến thời Xuân Thu (春秋時代, 722 tCn-481 tCn) nước Lương mất vào Tần quốc 秦國 bởi Tần Mục Công (秦穆公, 659 tCn-621 tCn). Họ Lương ra đời từ tên nước vào năm 641 tCn và phát triển mạnh tại vùng Thiểm Tây, TQ ngày nay.
1.2. “Xuất tự Doanh tính, dĩ Ấp vi Thị以邑為氏:
Theo Nguyên hà Tính toản 元龢姓纂 do Tể tướng Lý Cát Phủ 李吉甫 sai Lâm Bảo 林寶 soạn đời Đường (唐朝, 618-907) thì vào năm 645 tCn đời Chu Tuyên Vương, Tấn Huệ Công (晉惠公, 650 tCn-537 tCn) tấn công lấy được đất Lương Thành 梁城 mà nay là tỉnh Sơn Tây (在今山西省臨猗西南), các đất Cao Lương, Khúc Lương…dâng cho Tần Mục Công (秦穆公, 659 tCn-621 tCn). Nhờ các mưu thần xuất sắc là Bách Lý Hề, Kiển Thúc, Tần Mục Công đã đánh bại nước Tấn, diệt hai tiểu quốc là Lương và Nhuế. Một cháu khác của Tần Trọng được ban đất ấy và phong tước Bá[3] 梁伯. Cháu chắt ông nhận tên tước vị của tổ phụ Lương Bá 梁伯 làm tên họ thành họ Lương 梁氏.
Như vậy tuy cùng xuất phát từ tộc Doanh (Xuất tự Doanh tính 出自贏姓) nhưng có ngành do mất nước giữ tên nước làm họ (dĩ Quốc vi Thị 以國為氏), có ngành lại lấy tên đất được phong làm tên họ (dĩ Ấp vi Thị, 以邑為氏)!
 2. “Tiên Ti tộc phục tính sở cải” 古代鮮卑族复姓所改:
Theo Ngụy thư quan thị chí” (魏書官氏志, wèi shu guan shì zhì) thì vào thời Bắc Ngụy[4], vua Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành (孝文帝元宏, 471-499) di đô về Lạc Dương, định cư ở Trung nguyên đã ra nhiều sắc lệnh cải cách xã hội, đẩy mạnh quá trình Hán hoá 漢化 đối với người tộc Tiên Ti 鮮卑族 (xian bì zú). Trong đó có việc tự đổi họ Thác Bạt[5] 拓拔氏 của mình ra họ Nguyên và lệnh bắt đổi họ ba chữ Bạt Liệt Lan 拔列蘭 (bá liè lán) của người Tiên Ti thành họ đơn, một chữ Lương[6] theo kiểu người Hán. Sau này những tộc thiểu số khi thống nhất vào trung nguyên cũng được quan lại Hán tộc gán họ cho, trong đó có họ Lương.
Việc đổi từ họ kép ra họ đơn chắc hậu duệ hiện nay là những người mang họ Lương ở đất Nguỵ xưa (Bắc Hoàng Hà) chứ không thể là tổ tiên của người mang họ Lương ở Nam Trung Hoa và Việt Nam được.
3. Thuyết “Dĩ quốc vi thị” khác:
Theo Thông chí  thị tộc lạc通志氏族咯: trong giai đoạn Thất hùng, năm 352 tCn Nguỵ Huệ Vương 魏惠王 dời đô về Đại Lương 大樑 (nay là Khai Phong), xưng là vua nước Lương 樑惠王. Sau nước này bị Tần, Sở diệt, con cháu lấy tên nước làm họ. Người họ Lương vùng Hà Nam bên TQ nay chắc là hậu duệ dòng này.
Ngoài 3 thuyết trên còn có những giả thiết khác nhưng là cá biệt. Hoặc những dân ngụ cư nhận người họ Lương ở vùng có đông người mang họ đó để dễ sống thì đời nào cũng có. Căn bản là 3 thuyết trên hình thành nên tộc danh Lương 梁氏.

[1] Chỉ khảo cứu về nguồn gốc danh từ chỉ tộc danh “Lương”, không thể khảo cứu về nguồn gốc “những người họ Lương” được. 
[2] Tần (; Qin, Qin hoặc Ch'in, 778 tCn-207 tCn) là một nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc. Khi khởi nghiệp lãnh địa cai trị của các thủ lĩnh nhà Tần nằm ở châu thổ sông Vị, chủ yếu thuộc địa bàn các bộ tộc được cho là con cháu của dân tộc Jong ở thảo nguyên và mới chỉ tiếp xúc với văn hóa nhà Chu. Đến thời Chu Tuyên Vương Cơ Tĩnh (宣王姬靜 , 827 tCn- 782 tCn) rợ Khuyển Nhung từ phương Bắc tràn xuống tiêu diệt dòng họ nắm quyền đất Tần, Tuyên Vương sai cháu ba đời của Phi Tử là Tần Trọng (秦仲, 854 tCn-822 tCn) làm quan đại phu đứng đầu công quốc này. Quyền lực của nước Tần bắt đầu tăng lên từ thời điểm vua nhà Chu (người theo danh nghĩa là vua trên toàn bộ Trung Quốc) phong tước Công  (Tần Tương Công , 襄公, 778 tCn - 766 tCn) cho vua Tần sau khi quân đội Tần tham gia bảo vệ cho vua Chu khi ông phải bỏ chạy và di chuyển kinh đô trước các cuộc tấn công của bộ tộc Khuyển Nhung phía Bắc vào năm 771. Trong thời Đông Chu hay Xuân Thu bắt đầu, Chu Bình vương phong cho con của nhà quý tộc Doanh Kỳ 贏其 làm chủ thêm vùng tây bắc của nhà Chu (đất Phong và đất Kỳ). Ông được gọi là Tần Tương Công 秦襄公 (Đại Công thứ 3, 778 tCn - 766 tCn). Nước Tần từ đó trở thành nước lớn. Khoảng năm 359 tCn vào thời  Tần Hiếu Công 孝公, Thương Ưởng 商鞅 từ Nguỵ đến Tần được trọng dụng đã đưa ra nhiều cải cách biến Tần từ một nước lạc hậu trở thành nước có vị thể vượt hẳn sáu nước kia thành nước mạnh nhất thời Chiến Quốc hay Đông Chu liệt quốc (東周列國 , Dongzhou lieguo). Bắt đầu từ đây người đứng đầu nước Tần xưng Vương (Huệ Văn Vương 惠文王, cai trị 338 tCn - 311 tCn). Đó chính là tiền đề để Đại Công thứ 32 (tính từ Tần Trọng) là Doanh Chính 嬴政 tiêu diệt sáu nước chư hầu còn lại (Tề, Sở, Hàn, Yên, Triệu, Nguỵ ) thống nhất Trung nguyên, lên ngôi báu tự xưng Thuỷ Hoàng 始皇帝 vào năm 221 tCn. Nhà Tần (秦朝; Qín Cháo; Wade-Giles: Ch'in Ch'ao, 221 tCn - 206 tCn), triều đại kế tục nhà Chu (, Zhou, 1122–256 tCn) và trước nhà Hán ( , Han cháo, 206 tCn - 220 sCn). Việc thống nhất Trung Quốc năm 221 tCn và áp dụng chính sách của Pháp gia một cách triệt để; đặt ra tiêu chuẩn hoá chữ Hán, trọng lượng và đo lường và luật pháp, mở rộng các kênh để tưới tiêu và vận chuyển, xây dựng một hệ thống đường xá to lớn, mở rộng đất đai về phía bắc và phía nam; xây Vạn Lý Trường Thành; đốt sách, chôn học trò chứng tỏ công lao xây dựng đất nước thống nhất, rộng lớn của nhà Tần thật lớn nhưng chính sách tàn bạo và thủ tiêu văn hoá cũng gây ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ cho đời sau là một khúc ngoặt cực kỳ quan trọng trong lịch sử Trung Hoa. Tần Thủy Hoàng còn sai Đồ Thư đi đánh lấy Bách Việt, tức các tỉnh Chiết Giang, Quảng Đông, Quảng Tây, và một phần miền Bắc của Việt Nam, thời đó gọi là Âu Lạc của An Dương Vương.
[3] 1 trong 5 tước đời xưa là: công , hầu , bá , tử , nam
[4] Nhà Bắc Ngụy ( 北魏朝 , běi wèi cháo, 386-534 ), còn gọi là Thác Bạt Ngụy 拓拔魏 , Hậu Ngụy 後魏  hay Nguyên Ngụy 元魏 , là một triều đại thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
[5] Nguyên thị tộc Thác Bạt có cội nguồn từ của bộ lạc Tiên Ti tồn tại trong thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc ở Trung Quốc và là chủ nhân của nước Đại . Đại Quốc tồn tại từ khoảng năm 310-315 tới năm 376, với kinh đô đặt tại Thịnh Lạc (盛樂 , ngày nay gần huyện Hòa Lâm Cách Nhĩ (Holingol, 和林格爾 ) thuộc Hô Hòa Hạo Đặc, Nội Mông Cổ ) ban đầu với nghĩa Công quốc. Thác Bạt Ỷ Lư 拓跋猗盧 giữ quyền Tổng quản đăng bộ, được nhà Tấn ( 晉朝 , jìn cháo ; 265–420 ) phong làm Đại Công (代公 ) vào năm 310 như là phần thưởng cho việc giúp đỡ Lưu Côn 劉琨 , Thứ sử Tinh Châu 并州, trong các cuộc chiến chống lại Nhà nước người Hung Nô là Hán Triệu. Vùng đất phong sau này được nâng từ Công quốc lên thành Vương quốc vào năm 315 khi Y Lư được phong vương và vị Vương cuối cùng là Thác Bạt Thập Dực Kiền 拓跋什翼犍. Năm 386 con (hay cháu) ông là Thác Bạt Khuê 拓拔珪 đã giành lại độc lập của người Thác Bạt ban đầu. Sau đó Thác Bạt Khuê đổi tước hiệu của mình thành Ngụy vương 朝王 , sau này triều đại của ông được gọi là Bắc Ngụy, chuyển kinh đô đến Bình Thành vào năm 398. Năm 399 Thác Bạt Khuê tự xưng là Đạo Vũ đế (道武帝, 386-409). Cùng năm ông đánh bại các bộ lạc Cao Xa gần sa mạc Gobi, lập nền tảng cho sự cai trị ở trung nguyên của nhà Bắc Ngụy. Con trưởng Đạo Vũ đế là Thác Bạt Tự dẹp nội loạn và lên ngôi, tức là Minh Nguyên đế ( 拓拔嗣明元帝 , 409 - 423). Tiếp theo, con Minh Nguyên đế là Thái Vũ đế Thác Bạt Đào ( 拓拔燾太武帝, 423 - 451 ) có nhiều tham vọng, trọng dụng Thôi Hạo đã xây dựng nước Bắc Ngụy giàu mạnh, thống nhất cả miền bắc Trung Quốc vào năm 439. Lúc này miền nam trong tay nhà Lưu Tống. Cục diện đối lập miền bắc giữa Bắc Ngụy và các triều đại miền nam duy trì khá lâu và được sử sách gọi thời Nam Bắc triều (420 - 589). Biên giới của nhà Bắc Ngụy rất rộng lớn: đông bắc đến Liêu Tây, tây đến đông Tân Cương, nam đến Hoài Nam, bắc đến thảo nguyên Mông Cổ.
Ngay khi Đạo Vũ đế Thác Bạt Khuê ( 拓拔珪 , 386-409) chuyển kinh đô đến Bình Thành vào năm 398 đã bắt đầu áp dụng phong tục và luật lệ của người Hán (quản lý hành chính, cấu trúc bộ máy nhà nước, nghi lễ nhà nước, hệ thống tiêu chuẩn đo lường cân nặng, lịch pháp, thành lập trường học Nho giáo). Hoàng gia còn đẩy quá trình Hán hóa xa hơn một bước khi đổi họ Thác Bạt 拓拔氏 của mình thành họ Nguyên , từ vị vua thứ 7 Thác Bạt Hoành 拓拔 vào năm 475 đổi họ thành Nguyên Hoành 元宏 .
[6] Dịp này, người họ Thác Bạt xa thì đổi làm Trưởng Tôn, họ Ất Phiên đổi thành Thúc Tôn. Các họ kép (hai chữ) đều đổi thành họ đơn (1 chữ), trong đó 8 họ sang nhất là: Mục, Lục, Hạ, Lưu, Lâu, Vũ, Hệ, Uất. Sĩ tộc người Hoa thì có 4 họ lớn nhất là Lư, Thôi, Trịnh, Vương ở Phạm Dương, Thanh Hà, Vinh Dương, Thái Nguyên; họ Lý ở Lũng Tây, Triệu Quan kém hơn một bậc. Các họ người Hán này cũng được coi là quý tộc, con gái được tuyển vào cung vua.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!