Mấy ngày nghỉ, trời nóng bạn bè Hà Nội lên, cùng nhau lên Sa Pa chơi, nhân lúc “trà dư tửu hậu” lạm bàn về “đạo làm quan” thời nay. Nghe mà sốt cả ruột!
Hiện đã và đang có nhiều “cuộc vận động” rầm rộ được phát động, triển khai... song xem ra hiệu quả thực chưa như mong muốn.
Thử xem lại cổ nhân xưa nói gì về việc này.
Chúng ta đang sống trong thời đại KTS, mọi mối quan hệ và chuẩn
mực theo thời mới và được quy định bởi Hiến pháp, pháp luật, Điều lệ, Điều
lệnh, định hướng tư tưởng và vô vàn các văn bản ràng buộc khác cùng những chuẩn
mực ứng xử đặc thù mỗi ngành.
Nhưng những gì cổ nhân đúc kết, chắt
lọc và nêu ra phải đâu đã lỗi thời hết. Có điều người Việt xưa nói gì về việc
này chúng ta không thể biết được bởi khi đó người Việt chưa có chữ viết hoặc có
nhưng tài liệu đã bị ngoại bang lấy đi hết rồi.
Lại phải nghiên cứu những tư tưởng đó
từ sách của Tầu. Nhưng những sách đó
bản thân chẳng có nguyên bản, đọc qua sự nghiên cứu của người khác. Chả hiểu
tổng hợp lại có đúng không? và kiến bình như vậy có gì sai quấy?
1. Từ Chấp trung
tới Trung dung:
Thời sơ sử, khi vua Nghiêu (帝堯, 2337
tCn–2258 tCn) truyền ngôi cho Thuấn 舜, đã dặn
rằng: “Doãn chấp quyết trung”, tức là phải giữ tâm mình cho
tinh thuần và chuyên nhất thì mới có thể theo đúng được đạo Trung. 47
năm sau, khi truyền ngôi cho vua Hạ Võ (夏禹,2205–2198 tCn) Thuấn Đế 帝舜 lại dặn: “Nhân tâm duy
nguy, Đạo tâm duy vi, duy tinh duy nhất, doãn chấp quyết trung” nghĩa
là: Cái tâm của người thì hiểm nghèo, cái tâm của đạo thì kín nhiệm, phải giữ
cái tâm của mình cho tinh thuần và chuyên nhất, thì mới giữ được đạo Trung. Như
vậy, vua Thuấn muốn cho vua Vũ hiểu rõ hơn, mới thêm vào đoạn đầu, nhấn mạnh
thêm chữ “Tâm” để giữ được đạo “Trung”. Từ đó, đời nầy qua đời khác, chủ nghĩa
“Chấp trung” 執中 ấy được dùng làm chuẩn mực cho mọi hoạt động.
17 thế kỷ sau, Khổng Tử (孔子, còn gọi là Khổng Phu Tử 孔夫子, 551 tCn – 479 tCn) luận giải cho rõ thêm và nối
thêm chữ “dung” vào thành ra: “Trung dung” (H: 中庸, A: The middle-of-road, the mean-in-action, P: Le
juste milieu, le milieu constant). Đây là kết quả tích luỹ của ông sau
bao năm vất vả, đi khắp mọi nơi mới đúc kết ra được thuyết “Chính danh định
phận” nhằm ổn định thiên hạ bởi. Khi danh phận đã định thì địa vị của mỗi
người, trên dưới có trật tự, trách nhiệm và quyền hành phân minh, trên lấy lễ
mà khiến dưới, dưới lấy lòng kính mà thi hành mọi việc ắt thắng lợi 名不正則言不順, 言不順則萬物不成. Về sau, người cháu nội của ông
là Khổng Cấp (孔伋, 483 tCn - 402 tCn),
trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ soạn ra quyển Trung dung. Cuốn 中庸 này là một trong bốn cuốn của bộ Tứ Thư (ba quyển còn
lại là Đại Học 大學, Luận Ngữ 論語, Mạnh Tử 孟子).
Về mặt ngữ nghĩa: trung 中 là ở giữa, chỉ vào bộ vị trong
vật thể, ở khoảng giữa hai bên, cái Tâm ngay không lệch vẹo, là đường chính
trong thiên hạ; Dung 庸 là dung
dưỡng, giữ mãi không thay đổi.
Như vậy, Trung dung lấy sự cân bằng và ổn định làm cốt yếu.
2. Ngũ luân có còn
giá trị?
Muốn đạt Trung dung, xã hội phải có Ngũ
luân (H: 五倫, A: Five cardinal
relationships, P: Cinq relations cardinales). Khái niệm Ngũ
Luân được đề cập lần đầu trong sách Mạnh Tử, thế kỷ thứ ba trước
Công nguyên.
Theo đó Ngũ luân là năm nhóm quan hệ
có bổn phận đối đãi theo đạo thường của mỗi người với xã hội và gia đình.
Đó là: Phụ tử có tình thân 父子有親, Quân thần có nghĩa 君臣有義, Vợ chồng có phân biệt 夫婦有別, Lớn nhỏ có trật tự 長幼有序, Bằng hữu có tín thành 朋友有信. Năm nhóm nhưng chính là mười thành phần, trong đó ai nấy
đều có bổn phận thích ứng riêng. Do vậy thực ra là Thập nghĩa 十 義 , gồm 5 mối quan hệ:
(1). Quân
minh - Thần trung 君明臣忠: “Quân” là Vua, người làm chủ cả một
nước; “Thần” là bầy tôi, tức các quan ở trong nước có vua. Trong quan hệ này
thì: làm vua phải sáng suốt, bầy tôi phải trung thành và ngược lại có vua sáng
mới có tôi trung. Đấy là cái “Nghĩa” của đạo quân-thần. Song Mạnh Tử (孟子, 372 tCn–289 tCn hay 385 tCn–303/302 tCn) cũng
từng nói: Dân là quí, nước nhà là kế đó, vua là nhẹ. Do đó, “Quân” ở đây không
chỉ là Vua mà cần được hiểu là tượng trưng cho dân tộc, cho sự độc lập của quốc
gia và phải trung với quốc gia dân tộc, chứ không phải trung thành mù quáng
theo một ông vua hay dòng họ nhà vua. Trung với hôn quân vô đạo là ngu trung,
là mù quáng. Đồng thời tư tưởng “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” 君使臣死, 臣不死不忠, tức “Vua xử tôi chết, tôi phải
chết” là lỗi thời là bất công.
Sống, phục vụ theo con đường đã chon
nhưng người quân tử cũng phải thức thời, đi theo xu hướng thời đại vì lợi ích
Tổ quốc. Chính tư tưởng tiến bộ này mà những xử thế của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm trong thời tranh chấp Lê-Mạc-Trịnh còn lưu danh mãi.
(2). Phụ từ - Tử
hiếu 父慈子孝: “Phụ” là Cha, cha là chủ cả một nhà, cho nên lại gọi là “phủ
quân” 府君; “Tử” là Con, kể cả trai và gái. Câu này có nghĩa là cha
hiền từ, con hiếu thảo. Quan hệ Cha-Con cốt ở chữ “Thân” 亲. Đạo làm cha mẹ
thì phải hết lòng thương yêu, chăm sóc dạy dỗ con cái cho nên người và làm
gương tốt cho con. Phận làm con phải biết công ơn sinh thành dưỡng dục của cha
mẹ mà lo đền đáp. Thuở nhỏ phải nghe lời dạy bảo của cha mẹ, khi lớn lên phải
lo cấp dưỡng cha mẹ. Hiếu là nết đứng đầu trăm hạnh, hiếu cảm đến Trời thì gió
mưa hòa thuận, hiếu cảm đến đất thì muôn vật tốt tươi, hiếu cảm đến người thì
phúc lộc thịnh vượng. Cha hiền sinh con thảo, con hiếu cha mẹ vinh.
Đạo nghĩa này bây giờ vẫn vậy. Tư
tưởng “Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” 父使子 亡, 子不亡不孝, tức “Cha xử con chết, con phải chết” không chấp nhận được
nhưng con cái cãi lời cha mẹ cũng không được.
(3). Phu nghĩa - Phụ thính 夫 義 婦 聽: “Phu” là từ chỉ
đàn ông cũng dùng chỉ chồng; “Phụ” chỉ đàn bà nói chung và cũng có nghĩa là vợ.
Trong đạo 夫婦 vợ chồng thì: chồng có nghĩa, là trụ cột gia đình; vợ kính
trọng thuỷ chung với chồng. Đạo vợ chồng cốt ở chữ “Thuận” 顺. Người chồng
thường giữ vai trò trọng yếu trong gia đình, làm việc sinh lợi để nuôi sống vợ
con, xây dựng gia đình. Do đó, vợ phải nhường chồng quyền sắp đặt và quyết định
các công việc nhưng cần giúp ý kiến cho chồng và giúp chồng làm nên sự nghiệp,
không đơn giản chỉ: “Phu xướng phụ tuỳ” (H:夫唱婦隨, A: The husband begins, the wife follows, P:
Le mari commence, la femme suit). Có như vậy mới thực là “Phu quí phụ
vinh” 夫貴婦榮, là chồng làm quan, vợ được vinh hiển.
Ngày nay người vợ đã có vị trí nhất định trong xã hội, lại
đang phấn đấu bình đẳng giới nên tư tưởng “Phu xướng
phụ tùy”, Chồng nói ra, vợ buộc phải theo không còn được xã hội thừa nhận như
một lẽ đương nhiên.
(4). Huynh lương -
Đệ đễ 兄良弟悌: anh phải tốt, em cần nhường, giữa đạo bề bậc trên dưới. Đó
chính là ý nghĩa của “Huynh đệ như thủ túc” (H: 兄弟如手足, A: Brothers are like hands and feet, P:
Frères sont semblables bras et jambes).Trang Tử có nói rằng: Chân tay đứt
lìa thì khó nối lại được. Còn nỗi đau nào hơn ảnh huynh đệ tương
tàn.
Trong đó vai trò của Trưởng nam rất
quan trọng trong việc giữ nền nếp gia đình, củng cố quan hệ anh em. Còn sự lăng
loàn của các nàng dâu, thói đôi mách của các cô gái lại có tác dụng phá vỡ mối
quan hệ này.
(5). Bằng hữu hữu
tín 朋友有信: “Bằng” 朋 là bè bạn; “Hữu” 友 là cùng lòng cùng chí chơi với nhau, khác với
“hữu” 有 là có. Trong mối quan hệ này, bạn bè tin cậy, giúp đỡ
nhau cả trong lúc cam go lẫn khi sung túc. Nhưng muốn tin nhau cũng có nguyên
tắc của nó, trong đó có việc kẻ lớn giang tay che chở giúp đỡ, kẻ nhỏ vâng
thuận theo 長惠幼順.
Như thế, Khổng Tử cho Ngũ luân là Ngũ
Đạt đạo, tức là năm con đường vĩnh hằng, không thay đổi. Còn Mạnh Tử không nói
Ngũ luân, mà nói Nhân luân, tức là đạo cư xử của con người, nhưng chung quy lại
vẫn từ Ngũ luân mà phát triển rộng ra. Các quan hệ ngũ luân được coi là tốt đẹp
khi nó có hai chiều bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
Lạ một điều là không hiểu sao trong
Ngũ luân không thấy đề cập mối quan hệ Thầy-Trò? Hay nó được lồng
trong mối quan hệ Cha-Con?
Nói gì thì nói cần nhớ rằng
chính Khổng giáo dạy con người thành đạt phải là người: Chính
Tâm 正 心, Tu thân 修 身, Tề Gia 齊 家, Trị quốc 治 國, Bình thiên hạ 平 天 下 chứ đâu có áp đặt như thuyết giáo của các Nho gia từ đời
Tống về sau. Nếu mọi người cố gắng trau dồi tâm thân, cố gắng đem trật tự
và hòa bình vào tâm thân mình, vào gia đình mình, vào quốc gia mình, và vào thế
giới mình thì cuộc đời này đẹp biết bao.
3. Ngũ thường
truyền thống và hiện đại:
Do ảnh hưởng của Nho giáo mà người
Việt không mấy ai chưa nghe đến “Tam cương Ngũ thường” (H: 三綱 - 五常, A: Three principal social
bonds - Five cardinal virtues, P: Trois liens sociaux
principaux - Cinq vertus cardinales), “Tam tòng Tứ đức” (H: 三從 - 四德, A: Three
womanly subjections - Four womanly virtues, P: Trois sujétions
de la femme - Quatre vertus). Trong đó “Ngũ thường” là tư tưởng nguyên thuỷ
chủ yếu là tu nhân tích đức, nó bình đẳng từ bậc Chí tôn ngôi cao đến thần dân
trăm họ, lấy chữ “Nhân” để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an
sinh xã hội.
Trải qua hơn 2000 năm các tư tưởng
trọng dân của tiền nhân đã bị những người cầm quyền “quên” hoặc cố che đậy, xóa
lấp đi. Chế độ chính trị quân chủ đặt trên căn bản của Pháp gia còn Nho giáo
chỉ được dùng trong việc giáo dục và huấn luyện những người sẽ được tuyển chọn
làm quan. Chính Pháp gia chủ trương tôn quân triệt để, đã gán ghép chủ trương
đó cho Nho giáo. Vì thế mới có “Tam cương”, “Tam tòng” từ đời Hán (漢朝, 206
tCn. - 220 sCn) và được phát
huy cao dưới triều Tống (宋朝, 960-1127). Do vậy vô tình tư tưởng tiến bộ thời khởi lập trở thành trói
buộc số đông, trói buộc người có địa vị thấp, trói buộc người phụ nữ. Chỉ còn
“Ngũ thường” là giữ nguyên chân giá trị và sẽ còn phát huy tốt trong tương lai.
Về mặt ngữ nghĩa thì Ngũ
thường (H: 五常, A: Five cardinal virtues, P: Cinq vertus
cardinales) gồm có: ngũ 五 là năm, tên số đếm; thường 常 là hằng có.
Vậy “ngũ thường” 五常 nghĩa là năm đạo thường của người lúc nào cũng phải có
không thể thiếu được trong khi ở đời. Năm điều đó là “nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín” 仁義禮智信.
Thời @ các quan điểm của Nho giáo về Ngũ
thường vẫn còn giá trị nhưng cần được hiểu rộng và phù hợp hơn. Theo đó:
(1) Nhân: Nhân là cái đạo lý làm người, thái độ đối với đồng loại và
muôn vật, phải thế mới gọi là người. Người có nhân là có tình thương, là làm
những gì mà mình muốn người khác làm cho mình mà không cầu lợi, danh riêng cho
mình. Luôn giữ được lòng Nhân thì cái ác không có chỗ chen vào, làm được nhiều
việc thiện lúc nào ta cũng được an vui, hạnh phúc
(2) Nghĩa: nghĩa đen là thích hợp. Sự phải chăng, lẽ phải chăng, nên,
đàng hoàng. Ðịnh liệu sự vật hợp với lẽ phải; hành động thích hợp với đạo Nhân,
vì nghĩa, làm việc không có ý riêng về mình, đối lập với nó là lợi. Nghĩa phải
đi liền với Nhân, có Nhân mà không có Nghĩa thì đạo đức thiếu hình thức, còn có
Nghĩa mà thiếu Nhân thì đạo đức thiếu tinh thần.
(3) Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người, mở
rộng ra là việc tuân thủ các quy tắc, nguyên tắc đạo đức xã hội và pháp luật
theo khuôn mẫu tiên tiến (từ quan, hôn, tang, tế cho đến dự hội họp, học
hành, xem văn nghệ, đi đứng nói năng…). Nó thể hiện sự tôn nghiêm trật tự
và hòa hợp trong ý nghĩ và việc làm. Muốn có lòng Nhân, muốn trở về với Nghĩa
thì phải học Lễ để hành sự cho đúng.
(4) Trí: Khôn, trái với chữ “ngu” 愚, hiểu thấu sự lý, nhiều mưu kế tài khéo, luôn khôn ngoan, sáng
suốt, phân biệt đúng và sai. Biết tiên liệu, tính toán để hành động hợp đạo
lý. Khi cái Trí hiểu biết rõ ràng thì biết được điều Nhân, làm nhiều việc
Nghĩa, hành động đúng Lễ, tránh được sai lầm.
(5) Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy. Chữ tín vốn nằm trong 4 điều
trên, sau này được tách ra để thành Ngũ thường. Tín là thước đo, là sự phản ánh
4 giá trị trên, nó thể hiện phẩm chất đạo đức của con người. Nhưng niềm tin
phải có căn cứ, phải có Trí, đặt đúng chỗ, biết vị tha…
Mỗi người đều phát huy mặt tích cực
của các yếu tố cấu thành “Ngũ thường” và xã hội thực hành đúng đạo “Ngũ luân”
sẽ tạo ra một xã hội lành mạnh, của cải nhiều, con người sống hạnh phúc, an
vui. Đấy là xã hội “cực lạc” dưới trần gian. Nhưng có lẽ còn phải phân sđấu
dài.
Ngày nay, trải qua bao thăng trầm, biến đổi những chuẩn mực đạo đức
của lễ giáo thời quân chủ đã không còn thích hợp. Người ta không thể thực hiện
nghĩa vụ cấp trên mà không đòi hỏi quyền lợi. Quan hệ giữa lãnh đạo và nhân
viên, quan hệ giữa cha mẹ và con cái; giữa vợ và chồng… được dân chủ hoá tối
đa. Tuy nhiên, người Việt Nam ta vẫn trọng tình, trọng nghĩa, vẫn nặng lòng nhớ
ơn. Đồng thời, vào buổi cơ chế thị trường chưa hoàn thiện này mà rèn, giữ được
“Ngũ thường”, tạo ra môi trường có “Ngũ luân” kể ra không dễ chút nào!
Hãy cùng động viên giúp đỡ nhau trong
cuộc sống, phát huy những truyền thống tốt đẹp, nhân văn, xây dựng “Gia đình
Văn hoá”, hưởng ứng phong trào “Ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu
thảo hiền”, cùng nhau xây dựng cuộc sống mới ở từng khu vực để có
nhiều “Dòng họ Văn hoá”, “Làng Văn hoá”, “Khu phố Văn hoá”, “Cơ quan,
Đơn vị Văn hoá”.
Làm người có Nghĩa, có Nhân,
Luôn giữ chữ Tín, Lễ khuôn chấp
hành.
Lại thêm rèn Trí thông minh,
Xây dựng Ngũ đạo, việc thành khó chi.
-Lương Đức Mến (ST, BS và BL), soạn những ngày
tháng 6/2011
Đang lại tháng 5 nam 2024-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng cộng đồng, Hiếu kính Tổ Tông, Thương yêu đồng loại, Chăm sóc hậu nhân!